Những loại trà dễ tìm, được sử dụng từ lâu như trà xanh, trà vối, hoa cúc, atiso được chứng minh có tác dụng tốt cho sức khỏe.
Trà xanh
Trong lá trà xanh, nhóm hợp chất polyphenol – tanin có hàm lượng từ 12-25% và chiếm khoảng 50% hàm lượng chất khô hòa tan của trà. Polyphenol có khả năng ức chế các gốc tự do oxy do đó có tác dụng chống được các bệnh ung thư và làm chậm quá trình lão hóa.
Caffein kích thích nhẹ thần kinh trung ương, hệ hô hấp và tim mạch, kích thích hoạt động của thận và tăng cường sự lưu thông máu. Nhờ đó, giúp cơ thể nhanh chóng thải bỏ các sản phẩm thừa của sự trao đổi chất, tăng cường sự trao đổi chất và sự hấp thu oxy trong cơ thể.
Theo y học cổ truyền, trà xanh có tác dụng thanh nhiệt giải khát, tiêu hoá tốt, lợi tiểu, định thần… Khi nấu nước ngâm rửa vết bỏng hay lở loét có tác dụng sát khuẩn, sớm lên da non…
Trà vối
Cây vối mọc nhiều ở vùng nhiệt đới. Ở nước ta, từ lâu, lá – nụ – vỏ – rễ của cây vối được người dân dùng làm trà uống giải khát.
Lá vối có tác dụng kiện tì, giúp ăn ngon, tiêu hóa tốt. Chất đắng, chát trong vối sẽ kích thích tiết nhiều dịch tiêu hóa, chất tanin bảo vệ niêm mạc ruột, tinh dầu vối có tính kháng khuẩn nhưng đặc biệt không hại vi khuẩn có ích trong ruột.
Theo tài liệu nghiên cứu của Giáo sư Đỗ Tất Lợi, lá và nụ vối có chất kháng sinh thực vật, diệt được nhiều mầm vi khuẩn gây bệnh, kể cả vi trùng Gram- và Gram+.
Theo Đông y, vối có vị hơi chát, tính mát, không độc, tác dụng thanh nhiệt giải biểu, tiêu trệ, sát khuẩn. Dân gian thường dùng lá, vỏ, thân, hoa làm thuốc chữa đầy bụng, khó tiêu, tiêu chảy, mụn nhọt, viêm đại tràng mạn tính, lỵ trực trùng.
Trà hoa cúc, trà xanh, trà vối, trà atisô đều quen thuộc với người Việt Nam.
Trà hoa cúc
Thành phần chủ yếu có trong tinh dầu hoa cúc là bisabolol (levomenol), có tác dụng chống kích ứng, chống viêm và chống vi khuẩn. Không những vậy, hoạt chất này còn giúp phái nữ sở hữu làn da rạng ngời hơn. Chúng được dùng như thành phần dưỡng da, giúp giảm bong tróc và kích thích quá trình tự phục hồi của da.
Nhiều nghiên cứu chứng minh rằng, trong hoa cúc chứa apigenin – một chất có tác dụng ngăn ngừa tế bào ung thư lan rộng, khiến chúng nhạy cảm hơn với thuốc trị ung thư. Cây hoa cúc được trồng nhiều ở ta để lấy hoa làm thuốc hay ướp trà, nấu rượu.
Theo tài liệu cổ, hoa cúc trắng có vị ngọt, đắng, tính hơi hàn, cúc hoa vàng có vị đắng cay, tính ôn vào 3 kinh phế, can và thận. Có tác dụng tán phong, thấp, thanh đầu, mục, giáng hỏa, giải độc.
Trà atiso
Hoạt chất chính của atiso là cynarine (Acide 1- 3 dicaféin quinic). Ngoài ra, còn có inulin, inulinaza, tanin, các muối hữu cơ của các kim loại kali, canxi, magie, natri…
Atiso có tác dụng hạ cholesterol và ure trong máu, tạo mật, tăng tiết mật, lợi tiểu, thường được làm thuốc thông mật, thông tiểu tiện, chữa các chứng bệnh về gan, thận. Tuy chất cynarine đã tổng hợp được nhưng người ta vẫn dùng chế phẩm từ cao lá atisô tươi.
Atiso đã được sử dụng trong y học cổ truyền từ nhiều thế kỷ cho việc khắc phục các vấn đề cụ thể của lá gan và túi mật. Trong hệ thống y học cổ truyền của Brazil, các chế phẩm từ lá được sử dụng cho các vấn đề gan và túi mật, tiểu đường, cholesterol cao, huyết áp cao, thiếu máu, tiêu chảy, sốt, chứng viêm loét, và bệnh gút.
Ở một số nước mà các loại thảo dược tiêu chuẩn hóa, atiso được sản xuất và bán như thuốc theo toa cho những người rối loạn tiêu hóa và gan, cholesterol cao.
Bác sĩ chuyên khoa II Huỳnh Tấn Vũ, Bệnh viện Đại học Y Dược cơ sở 3, TP.HCM
Nguồn: vietnamnet