Sáng 10/12, Diễn đàn Quốc gia phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam (Diễn đàn Make in Vietnam) đã khai mạc và đang diễn ra tại Hà Nội.
Mở đầu diễn đàn, ông Võ Quang Lâm – Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã có bài tham luận về công nghệ số trong quản lý và phát triển lĩnh vực năng lượng.
Theo ông Võ Quang Lâm, EVN hiện cung cấp điện cho 100% số xã và 99,25% số hộ dân (khoảng 29,5 triệu khách hàng) tại Việt Nam. Tập đoàn Điện lực Việt Nam có khoảng 19 triệu công tơ điện tử, khoảng 15% có đo chỉ số từ xa. Tỷ lệ này hiện ở mức cao so với các nước ASEAN.
EVN cũng đã thực hiện việc cung cấp hóa đơn điện tử. 99,6% hợp đồng mua bán điện hiện đã được ký bằng hợp đồng điện tử. Tập đoàn Điện tử Việt Nam cũng đã triển khai 12/12 dịch vụ của ngành điện lên Cổng Dịch vụ công Quốc gia. Các dịch vụ của ngành điện cũng chiếm tới 55% dịch vụ được giao dịch trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia.
Diễn đoàn Quốc gia phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam. |
14 ngân hàng lớn và các tổ chức trung gian thanh toán đều đã đưa vào triển khai dịch vụ thanh toán cho ngành điện. Người dùng của EVN cũng có thể tra cứu việc sử dụng điện của họ trên ứng dụng của EVN.
Trong thời gian tới, EVN sẽ thúc đẩy việc thanh toán tiền điện không sử dụng tiền mặt (hiện đạt khoảng 80%). Tập đoàn Điện lực Việt Nam cũng đang tính toán việc áp dụng công nghệ Blockchain và AI vào hoạt động sản xuất, kinh doanh điện.
Chia sẻ về tầm quan trọng của công nghệ số trong việc khôi phục ngành du lịch, ông Nguyễn Lê Phúc – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch cho biết, với khách du lịch, kể từ khi tìm kiếm điểm đến, dịch vụ, cho đến việc trải nghiệm và phản hồi đều được thực hiện qua chiếc điện thoại thông minh.
Theo báo cáo của Tổ chức Du lịch Thế giới, tổng lượng du khách quốc tế trong năm 2020 giảm 70% so với năm 2019, lùi về thời điểm những năm 1990.
Những khó khăn, rào cản trong việc chuyển đổi số ngành du lịch Việt Nam. |
Hiện Việt Nam đang xây dựng cơ sở dữ liệu của khoảng 14.000 khách sạn và hệ thống dữ liệu về các cơ sở cung cấp dịch vụ lữ hành. Nhiều địa điểm du lịch tại Việt Nam cũng đã triển khai vận hành các ứng dụng phần mềm chatbot, thực tế ảo và các bốt cung cấp thông tin du lịch trên địa bàn.
Các doanh nghiệp trong ngành du lịch đều đã ứng dụng công nghệ để quản lý và bán hàng trên môi trường mạng. Các sàn thương mại điện tử du lịch hiện chiếm khoảng 20% thị phần, các ứng dụng vận chuyển số của Việt Nam chiếm khoảng 13% thị phần trong nước.
Theo ông Phúc, vấn đề nhận thức, rào cản pháp lý và nguồn lực là những rào cản lớn trong việc ứng dụng công nghệ số vào phát triển ngành du lịch. Bên cạnh đó, đại dịch Covid-19 đang gây nên những đứt gãy chuỗi cung ứng đối với ngành du lịch toàn cầu.
Tổng cục Du lịch Việt Nam cho rằng, để chuyển đổi số ngành du lịch, việc liên kết hợp tác giữa các doanh nghiệp, vùng, địa phương và tour tuyến điểm để hình thành một hành lang du lịch xanh, du lịch bền vững là vô cùng quan trọng. Bên cạnh đó, cần hình thành mạng lưới kết nối dữ liệu để quản lý, phục vụ du khách, phát huy mạnh mô hình kết nối công – tư trong ngành du lịch.
Ông Hà Trung Kiên – Phó TGĐ Tập đoàn G-Group chia sẻ về giải pháp giúp doanh nghiệp chuyển đổi số. |
Theo ông Hà Trung Kiên – Phó Tổng giám đốc Tập đoàn G-Group, đại dịch Covid-19 đã thúc đẩy nhanh hơn quá trình chuyển đổi số doanh nghiệp. Đa phần các doanh nghiệp lớn đều đã tiến hành chuyển đổi số do muốn tối ưu chi phí vận hành, đưa ra quyết định nhanh chóng và chính xác hơn trong đại dịch nhờ việc sử dụng dữ liệu.
Để tăng hiệu suất làm việc của doanh nghiệp, ông Kiên đề cập đến vấn đề tương tác của nhân viên trong tổ chức. Điều này sẽ tác động tích cực đến văn hóa và tình hình kinh doanh của tổ chức đó.
Các doanh nghiệp hiện dùng các phần mềm giao tiếp phổ biến như Facebook, WhatsApp, Zalo, Viber… Khi sử dụng những phần mềm này, họ phải đối mặt với vấn đề bảo mật thông tin và sự xao nhãng của nhân sự. Nếu dùng các sản phẩm, dịch vụ riêng biệt, doanh nghiệp sẽ mất từ 3-8 USD/người/tháng. Trong khi đó, không phải doanh nghiệp nào cũng có khả năng chi trả một lượng chi phí như vậy.
Hiện G-Group đang triển khai một giải pháp Việt Nam nhằm giải quyết vấn đề này. Theo ông Kiên, bộ công cụ GapoWork của tập đoàn này đang cung cấp một nền tảng mới dành cho các doanh nghiệp. Đây là giải pháp giúp các nhân sự trong một công ty, doanh nghiệp kết nối với nhau dễ dàng, gia tăng hiệu suất làm việc ở bất kỳ đâu với chi phí rất tiết kiệm.
Ông Vũ Minh Trí – Phó Chủ tịch Công ty IoT. |
Nói về đóng góp của bản đồ số Make in Vietnam, ông Vũ Minh Trí – Phó Chủ tịch Công ty IoT Link cho biết, nếu không có bản đồ số, những dữ liệu liên kết đến địa điểm, hành vi khách hàng của những ứng dụng gọi xe công nghệ như Grab đều không thực hiện được.
Nền tảng của nền tảng chính là bản đồ số. Hệ thống bản đồ số giúp các doanh nghiệp vận chuyển và thương mại điện tử có thể thực hiện được tốt hơn công việc của mình. Đây bắt buộc phải là một nền tảng quốc gia, bởi người nắm giữ hệ thống nền tảng này sẽ rất rõ hành vi của người dùng Việt.
Việc sử dụng, làm chủ nền tảng bản đồ số sẽ giúp đảm bảo an toàn thông tin, chủ động trong việc phát triển thêm các sản phẩm dịch vụ mới, qua đó đóng góp lớn vào sự phát triển của các doanh nghiệp công nghệ Việt.
Ông Hoàng Minh Quân – CEO Cloudify Việt Nam. |
Theo ông Hoàng Minh Quân – CEO Cloudify Việt Nam, đánh giá của nhiều doanh nghiệp top đầu thế giới cho thấy, Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn về việc tăng trưởng kinh tế số. Những doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc tăng trưởng của nền kinh tế số Việt Nam.
Hiện Cloudify đã hỗ trợ chuyển đổi số thành công cho 2.000 doanh nghiệp và đặt mục tiêu chuyển đổi số cho khoảng 100.000 doanh nghiệp. Để làm được điều đó, doanh nghiệp này cho rằng cần có sự kết nối của cả cộng đồng doanh nghiệp công nghệ số để tạo ra một hệ sinh thái chuyển đối số tại Việt Nam.
Chia sẻ tại diễn đàn doanh nghiệp công nghệ số Make in Vietnam, ông Nguyễn Thành Trung – CEO Sky Mavis, đơn vị phát triển tựa game đình đám Axie Infinity cho biết, phát triển lĩnh vực tài sản số là cơ hội để Việt Nam sánh vai với các cường quốc kinh tế.
Theo ông Trung, các hoạt động đầu tư trên thế giới trong vòng 2 năm qua chủ yếu được đổ dồn vào các lĩnh vực ít bị tác động bởi Covid-19. Trong bức tranh toàn cảnh đó, công nghệ Blockchain nổi lên như một xu hướng rất nóng trong thời gian gần đây.
Chỉ trong vòng 2 năm qua, các chỉ số về Blockchain trên thế giới đã tăng trưởng rất mạnh. Tổng vốn hóa trong lĩnh vực này là 15.000 tỷ USD, tăng gần 5 lần so với năm 2020.
Nguyễn Thành Trung – CEO Sky Mavis, đơn vị phát triển tựa game đình đám Axie Infinity. |
Người Việt Nam với những đặc điểm nhanh nhạy trong xử lý thông tin đã làm quen rất nhanh với công nghệ mới. Chỉ số chấp nhận tiền điện tử của Việt Nam hiện ở top đầu thế giới hiện nay. Một số dự án Blockchain của Việt Nam đã trở thành những hiện tượng công nghệ tầm cỡ toàn cầu.
Thời gian qua, thị trường NFT đang tăng trưởng rất nhanh. Giờ đây, điều mà Việt Nam cần quan tâm là làm sao có khung pháp lý tốt trong lĩnh vực Blockchain để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp Việt.
Theo ông Nguyễn Thành Trung, Việt Nam cần có cách tiếp cận mở hơn đối với vấn đề liên quan đến tài sản số. Nếu không có sự tạo điều kiện cho các startup Việt, chúng ta sẽ không đem được những lợi thế của các công ty Việt để phát huy nó trên sân nhà.
Cuối phiên buổi sáng, nhiều đại biểu là các nhà làm chính sách, CEO doanh nghiệp công nghệ số đã tham dự tọa đàm để cùng chia sẻ các giải pháp chuyển đổi số nhằm giúp các ngành, lĩnh vực phục hồi và phát triển bền vững sau đại dịch.
Theo Thứ trưởng Nguyễn Huy Dũng, Covid-19 là cơ hội để số hóa các tài nguyên đang có. Chia sẻ về điều này, ông Nguyễn Lê Phúc – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch cho biết, Việt Nam hiện đã số hóa bảo tàng, nhà hát… và dự kiến đến năm 2022 sẽ số hóa khoảng 20 điểm du lịch của các tỉnh, rồi kết nối liên thông các hệ thống đó.
Tọa đàm chia sẻ các giải pháp chuyển đổi số nhằm giúp các ngành, lĩnh vực phục hồi và phát triển bền vững sau đại dịch. |
Nói về hoạt động của ngành điện, ông Võ Quang Lâm – Phó TGĐ Tập đoàn Điện lực Việt Nam cho biết, đến năm 2022, tập đoàn sẽ thực hiện xong kế hoạch chuyển đổi số để đến 2025 trở thành một doanh nghiệp công nghệ số.
Ngành điện Việt Nam hiện đứng trước 3 thử thách lớn, đó là xu hướng phi carbon hóa, xu hướng phi tập trung hóa và xu hướng tự do hóa ngành Điện (triển khai thị trường bán lẻ cạnh tranh).
Ngành điện muốn công tác chuyển đổi số triển khai nhanh hơn. Ngành điện cũng sẵn sàng cung cấp các API để các doanh nghiệp ngoài ngành kết nối và phát triển một hệ sinh thái trên nền tảng của ngành điện lực. Ông Lâm muốn mọi người cùng ra đề bài để có thể giải nhiều hơn các bài toán của ngành điện lực Việt Nam trong thời gian tới.
Chia sẻ về nền tảng bản đồ số Việt Nam do IoT Link phát triển, ông Vũ Minh Trí cho biết, về mặt công nghệ, bản đồ nền mà doanh nghiệp này đang có là bản đồ nền quốc tế, có nhiều lớp dữ liệu khác nhau. Với bản đồ số Việt Nam, sản phẩm của IoT Link có lớp dữ liệu về hiện trạng đường xá 2D, 3D và nhiều lớp dữ liệu bản đồ khác.
Theo ông Trí, với bản đồ Việt Nam, dữ liệu bản đồ của IoT Link đang là tốt nhất so với thị trường khác mà doanh nghiệp này triển khai. Công ty này sẵn sàng hợp tác với các doanh nghiệp khác để kết nối, phát triển các dịch vụ, thậm chí là một lớp bản đồ riêng trên nền tảng do IoT Link cung cấp.
Ông Vũ Minh Trí chia sẻ về giải pháp nền tảng bản đồ số Việt Nam của IoT Link. |
Khi tư vấn cho một doanh nghiệp Việt về giải pháp chuyển đổi số, theo ông Hoàng Minh Quân – CEO Cloudify Việt Nam, các công ty IoT và smart home có cơ hội phát triển lớn bởi nhu cầu thị trường rất cao.
Để một startup thành công, mấu chốt là các startup đó phải giải quyết được bài toán của xã hội, có văn hóa tốt và nắm bắt được các xu hướng của thị trường. Chúng ta có thể đứng trên vai các người khổng lồ, nhưng phải sáng tạo hơn, ông Quân cho biết.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang có những thay đổi mạnh mẽ về chuyển đổi số. Tuy nhiên họ có nhiều khó khăn trong việc triển khai thực hiện.
Nếu chính phủ tiếp tục đẩy mạnh các chương trình quốc gia về chuyển đổi số, điều này sẽ tạo thuận lợi nhiều hơn cho các doanh nghiệp SME. Tuy vậy, quyết tâm chuyển đổi số mới là điều đóng vai trò quan trọng nhất, bởi nếu không chuyển đổi số, họ sẽ bị tụt lại phía sau.
Nói về vấn đề liên kết giữa các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam, ông Hà Trung Kiên – Phó TGĐ Tập đoàn G-Group cho rằng, nếu xác định các doanh nghiệp công nghệ số là nền tảng cho sự phát triển, các doanh nghiệp lớn đang sử dụng các nền tảng của doanh nghiệp nước ngoài, trong khi các doanh nghiệp Việt cũng có sản phẩm như vậy.
Do vậy, cần phải làm sao để sản phẩm của các doanh nghiệp số Việt được biết đến rộng rãi hơn, từ đó tạo nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển của các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam.
Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Huy Dũng. |
Theo Thứ trưởng Nguyễn Huy Dũng, các nền tảng số Việt Nam trước hết phải giải được nhu cầu của người dùng Việt Nam.
Lấy ví dụ về điều này, Thứ trưởng Dũng nêu ra bài toán về việc ngôi nhà của mình ở quê đang có nhu cầu cần sửa lại, tuy nhiên bản thân ông và gia đình lại có nhu cầu muốn lưu giữ không gian sinh hoạt truyền thống của gia đình lên không gian số để chia sẻ và lưu trữ cho các thế hệ tiếp theo.
Chia sẻ về gợi ý này, ông Vũ Minh Trí cho rằng, bản đồ 4D của IoT Link có 4 lớp, với lớp 3D có những tính năng giúp người dùng theo dõi các lớp kiến trúc theo từng thời gian khác nhau. Với lớp kiến trúc thứ 4, người dùng có thể được cung cấp các dịch vụ mới được tích hợp lên đó. Đây là cách để giải bài toán mà Thứ trưởng Nguyễn Huy Dũng chia sẻ.
Theo Thứ trưởng Dũng, các tập đoàn lớn cũng có rất nhiều bài toán chưa giải được. Đây chính là cơ hội của các doanh nghiệp Việt Nam. Thứ trưởng Dũng khuyến khích các doanh nghiệp lớn cùng ra đề bài và thậm chí ký hợp đồng với các startup Việt có thể giải quyết bài toán đó.
Ông Hà Trung Kiên – Phó TGĐ Tập đoàn G-Group cho rằng, trong suy nghĩ, đâu đó người Việt vẫn còn có những nghi ngại nhất định đối với các sản phẩm Việt Nam. Do vậy, cần phải làm sao để có chính sách truyền thông phù hợp để người dân hiểu được các sản phẩm Việt Nam có thể đáp ứng gì và đem lại điều gì. Tuy vậy, quan trọng nhất vẫn là sản phẩm Việt phải tự mình giải được bài toán về nhu cầu của người sử dụng.
Theo ông Vũ Minh Trí, chuyển đổi số không phải chỉ là vấn đề của công nghệ, cách thức vận hành của doanh nghiệp mới là điểm mấu chốt. Chuyển đổi số là thay đổi trong khâu quản lý, khi có giải pháp công nghệ thuyết phục, cần có cách quản lý thay đổi để việc ứng dụng công nghệ trở nên tốt hơn.
Theo ông Kiên, công nghệ vẫn mãi chỉ là công cụ, để chuyển đổi số thành công, điều quan trọng nhất vẫn phải là vấn đề con người.
Diễn đàn Make in Vietnam 2021 được tổ chức với chủ đề Chuyển đổi số là động lực phục hồi và phát triển kinh tế. |
Chia sẻ thêm về câu chuyện này, Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, công nghệ chính là tạo ra sự thay đổi, sau đó xuất hiện câu chuyện chúng ta có muốn, có dám về thể chế hóa để cho câu chuyện đó trở nên hợp pháp hay không. Mối quan hệ giữa công nghệ và thể chế là như vậy.
Theo ông Trần Thọ Đạt đến từ Đại học Kinh tế Quốc dân, đại bộ phận doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Xu thế phương thức sản xuất kinh doanh trong thế kỷ tới không phải là sự thống trị của các doanh nghiệp tập đoàn mới. Thị trường toàn cầu sẽ là sự thống trị của hàng chục triệu, trăm triệu các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do đó, nhu cầu đào tạo nhân lực cho một số lượng lớn các doanh nghiệp đó cần thay đổi.
“Trong Đề án Chuyển đổi số Quốc gia, đã có những chỉ tiêu rất rõ về chỉ tiêu đào tạo. Tuy vậy, vai trò và phương thức đào tạo của các trường đại học trong quá trình thay đổi trở thành đại học số là gì?”, ông Đạt đặt vấn đề.
Trả lời câu hỏi này, Thứ trưởng Nguyễn Huy Dũng cho rằng đại học số là giải pháp đột phá để đào tạo nguồn nhân lực chuyển đổi số cho giai đoạn tới. Đại học số là những trường đại học 3 không, tức là không có giảng đường (dạy học trực tuyến), không có sách giáo khoa truyền thống (sử dụng giáo trình số được cá nhân hóa) và không có giáo sư cơ hữu nào cả (có thể học qua AI). Đây sẽ là giải pháp đột phá để đào tạo nhiều sinh viên công nghệ hơn nhằm đáp ứng được nhu cầu của thị trường.
Hiện tỷ lệ sinh của Việt Nam thấp hơn so với Nhật Bản và Hàn Quốc. Hàn Quốc đã triển khai 19 trường đại học số, đây là một ví dụ cho Việt Nam. Bên cạnh việc mở ra các trường đại học số, Bộ TT&TT cũng quan tâm đến việc đào tạo lại (reskill) và đào tạo nâng cao (upskill) dựa trên các nền tảng trực tuyến.
Khép lại phiên buổi sáng của Diễn đàn Make in Vietnam, Thứ trưởng Nguyễn Huy Dũng cho rằng, sau khi nói về nhận thức chung, chuyển đổi số là câu chuyện riêng của mỗi tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp. Do đó, sẽ không bao giờ có một đáp án chung để giải quyết câu chuyện này.
Nguồn: vietnamnet