Tròn 30 năm trước, sự sụp đổ một phần của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX là một sự kiện đặc biệt gây chấn động toàn thế giới, làm thay đổi căn bản trật tự thế giới, là một tổn thất hết sức to lớn và nặng nề của những người cộng sản trong quá trình hiện thực hóa học thuyết Mác – Lênin vào con đường phát triển của đất nước.
Một tấn bi kịch lớn nhất thế kỷ XX: Chủ nghĩa xã hội thất bại trên chính ngay quê hương của Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Sự sụp đổ của một phần hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã khiến giới chính trị tư sản và chủ nghĩa đế quốc tin chờ vào hiệu ứng “đô mi nô” về cái gọi là “sự sụp đổ định mệnh” toàn hệ thống của chủ nghĩa xã hội và ngóng đợi về thời khắc “vàng”: Đó là “chiến thắng không cần chiến tranh” của thế giới tư sản (!).
Nhưng, 30 năm qua, lịch sử của chủ nghĩa xã hội lại đi những lối mà chính họ cũng không thể ngờ.
Sự đứt gãy ngoài mong muốn của chủ nghĩa đế quốc về chuỗi sụp đổ “đô mi nô” của toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa
Mùa thu năm 1991 là thời điểm “sai lầm của lịch sử” với đổ vỡ của Liên bang Xô viết – một quốc gia thống nhất đã từng tồn tại, phát triển hùng mạnh trong suốt ba phần tư thế kỷ – nhưng đồng thời là thời khắc nhân loại chứng thực sự đứt gãy của “hiệu ứng đô mi nô triệt để” trái với mong muốn của chủ nghĩa tư bản về chuỗi sụp đổ tất yếu mang tính dây chuyền của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới.
Vì sao như vậy? Có thể hình dung vấn đề này trên 3 phương diện chủ yếu:
Thứ nhất, những gì trái với quy luật lịch sử, tất yếu sẽ bị lịch sử đào thải
Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước ở Đông Âu là sụp đổ của một mô hình cụ thể chứ không phải sự sụp đổ của một lý tưởng trên nền móng hệ thống lý luận. Hơn nữa, mô hình chủ nghĩa xã hội của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu là những mô hình đồng dạng phối cảnh, tới mức khó phân biệt bản sắc của các mô hình trong sự phát triển đa dạng của chủ nghĩa xã hội một cách tự nhiên. Vấn đề này hoàn toàn trái với sự chỉ dẫn của cả C.Mác và V.I.Lê-nin về tính thống nhất và đa dạng của chủ nghĩa xã hội.
Mặt khác, một trong những nguyên nhân sai lầm dẫn đến sự sụp đổ ấy là do các Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu mắc phải sai lầm chủ quan để cho quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra trong nội bộ Đảng, Nhà nước, làm cho cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, dao động, hoài nghi về những giá trị của chủ nghĩa xã hội, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, hạ thấp và đi đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Hơn nữa, tất cả điều đó đặt dưới “ngọn cờ” dân chủ vô hạn độ, công khai vô giới hạn thì tan vỡ là không tránh khỏi. Một thể chế không biết tự bảo vệ mình một cách hợp quy luật và kiên định, không trước ắt sau sẽ vào tan rã và sụp đổ thì điều đó không lấy gì làm lạ cả. Qua thực tiễn càng cho thấy, lực lượng bên ngoài là tác nhân kích thích quan trọng, nhưng lực lượng “ngầm” bên trong nội bộ Đảng, Nhà nước là “hạt nhân nòng cốt” cho sự “chuyển hóa”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm biến chất chế độ xã hội chủ nghĩa, làm cho Đảng Cộng sản bị phân hóa, rối loạn, tự mâu thuẫn, không thể kiểm soát được tình hình; không thể lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Các thế lực thù địch đã tìm mọi cách nhằm “gieo hạt giống thức tỉnh và hủy diệt chế độ Xô viết” thông qua sách lược “mưa dầm thấm lâu”. Với chiêu bài “ngoại giao thân thiện”, các thế lực thù địch đẩy mạnh truyền bá tư tưởng tự do, dân chủ, nhân quyền, luồn sâu, leo cao, từng bước can thiệp ngày càng sâu vào đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, ngoại giao và quốc phòng, an ninh của Liên Xô. Sức mạnh quốc gia phải đặt trên sự đoàn kết một khối vững chắc thì lại bị “băm nhỏ” một cách “dân chủ” vô lối và thảm hại. Chủ nghĩa ly khai hoành hành nằm ngoài sự kiểm soát một cách nguy kịch. Điều tệ hại này thúc đẩy nhanh chóng quá trình tự diễn biến, tự chuyển hóa, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước, làm cho nội bộ 15 nước cộng hòa và hệ thống chuyên chính vô sản đã được thiết lập khá vững chắc từ thời V.I.Lê-nin, từng bước biến đổi về nhận thức, chuyển hóa về tư tưởng, gây mất niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào đất nước, lý tưởng chủ nghĩa cộng sản, đã rơi vào hỗn loạn và tan rã.
Vì thế, tất cả hành động diễn ra một cách mù quáng và trái quy luật như thế cho nên sự sụp đổ và tan rã đồng loạt ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu nhất định đều chung một con đường thất bại như nhau.
Thứ hai, nếu những ai khiến lịch sử trả giá thì họ phải trả giá cho lịch sử
Cuộc chính biến tháng 8-1991 là hệ quả tất yếu của quá trình chuyển đổi lệch hướng công cuộc cải tổ và công khai hóa do Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô M. Goóc-ba-chốp khởi xướng từ tháng 3-1985.
Nhìn từ mọi góc độ, sự kiện gây chấn động lịch sử đó có rất nhiều cách lý giải. Nhưng tựu trung, đó vẫn là quá trình tự diễn biến, tự chuyển hóa, thẩm thấu từ bên trong và sự tấn công cấp tập, không khoan nhượng từ bên ngoài.
Có thể thấy, công cuộc cải tổ không những không chữa được những căn bệnh trầm kha của xã hội Xô viết mà cuối cùng còn giúp thế lực hữu khuynh tận dụng triệt để trong việc kích động lực lượng phản kháng tác động đến phần lớn quần chúng đang mất dần niềm tin vào thể chế. Sự sụp đổ của Liên Xô không diễn ra ngay lập tức, mà đó là kết quả của một chương trình kinh tế và tư tưởng được lên kế hoạch kỹ càng. Câu khẩu hiệu “Cải tổ – Dân chủ – Công khai” đã thu hút sự quan tâm của giới trí thức, mà những người lúc đó không thể lý giải được ý nghĩa sâu xa của những từ trong câu khẩu hiệu này.
Hai năm sau khi lên nắm quyền và chỉnh đốn hàng ngũ đảng viên dưới quyền, M. Goóc-ba-chốp tuyên bố thay đổi toàn diện nhà nước Xô viết và cho rằng “cải tổ là từ mang nhiều nghĩa và đầy hàm ý”, “cải tổ chính là một cuộc cách mạng”. Như vậy, Ban lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Liên Xô xác định nhiệm vụ không phải là cải cách dần dần, mà là thay đổi thông qua việc hủy hoại và cắt đứt tính kế thừa. Đây là điều cực kỳ nguy hiểm.
Để thúc đẩy chương trình cải cách, M.Goóc-ba-chốp đi đầu phong trào sửa đổi Hiến pháp Liên Xô, bao gồm việc thiết lập một vị trí tổng thống mới tập trung nhiều quyền lực hơn. Chính điều này đã hủy hoại uy tín của Đảng Cộng sản, phá vỡ niềm tin của quần chúng đối với những giá trị chủ nghĩa xã hội, thổi bùng chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa chống cộng, chủ nghĩa ly khai tại các nước cộng hòa tự trị thuộc Liên bang Xô viết, tạo điều kiện cho các phần tử bất đồng chính kiến, những kẻ cơ hội chính trị đủ mọi phe phái trỗi dậy, tập hợp thành các phong trào chống đối.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, người ta mới nhận ra rằng, kẻ thù đã lợi dụng nhiều khiếm khuyết, lỗ hổng trong Đảng Cộng sản và đã cài cắm vào xã hội một hệ thống tuyên truyền hoàn chỉnh cho các giá trị chủ nghĩa tự do, đẩy xã hội phát triển theo một véc-tơ khác chống chủ nghĩa xã hội. Điều này đặc biệt rõ trong giới trí thức khoa học xã hội, các đại diện của bộ phận này đã công khai vứt bỏ, đốt thẻ đảng, mà trước đây từng là ước mơ của họ, tuyên bố chủ nghĩa tư bản là “đỉnh cao của nền văn minh thế giới”, “thành trì của dân chủ, là miền đất hứa”(!). Điều đáng chú ý là, chính những người đã từng nỏ miệng tuyên truyền cho chủ nghĩa cộng sản và “ăn theo”, thậm chí trở nên “vinh thân phì gia” nhờ đó phải bị trừng trị, giờ lại biến thành những kẻ đả kích, công phá mạnh nhất chủ nghĩa đó.
Mặt khác, các thế lực chống cộng phương Tây, nhất là Mỹ, luôn ấp ủ âm mưu chia rẽ các dân tộc trong Liên bang Xô viết. Trong những năm tháng cải tổ, các nhà lãnh đạo Liên Xô lập lờ trước tình trạng mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc bùng lên dẫn đến phong trào ly khai đòi độc lập ở một số nước cộng hòa. Chính thái độ lập lờ đó đã đẩy nhanh sự sụp đổ của thể chế chính trị Xô viết. Đối với Liên Xô, là điểm tận cùng trong hệ thống mà chiến dịch cải tổ đã đẩy tới tình trạng rệu rã, nếu chỉ cần một đòn nhẹ của “dân chủ”, “công khai”, nhưng thâm độc và được tính toán chính xác của kẻ thù, tấn công vào chỗ dễ tổn thương nhất thì cả hệ thống đó tan vỡ là điều tất yếu.
Có thể nói gọn rằng, sự tấn công của các thế lực thù địch luôn có tác động công phá làm chuyển hóa từ bên trong và khi bên trong suy yếu, bạc nhược và hủ mục, lại lơ là, mất cảnh giác… thì đổ vỡ và thất bại nhất loạt của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu là điều không tránh khỏi.
Thứ ba, lịch sử cảnh giới và sự cảnh giới của lịch sử
Có những điều mà cho tới tận bây giờ, ngay cả giới chính trị gia tư sản các nước vẫn không thể hiểu được, vì sao hiệu ứng “đô mi nô” về sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa đã không diễn ra như họ mong đợi. Và, vì sao hiệu ứng đó bị đứt gãy và dừng lại ở châu Âu?
Đất nước Xô viết sụp đổ và các quốc gia xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã để lại muôn vàn hậu quả cho chính đất nước họ, cho các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Đối với lịch sử của chủ nghĩa xã hội, trong nhiều hậu quả, có rất nhiều hệ lụy cực kỳ nghiêm trọng và hết sức nặng nề.
Lịch sử của chủ nghĩa xã hội lên tiếng cảnh giới: Không thể đi con đường xã hội chủ nghĩa kiểu Liên Xô và các nước Đông Âu!
(còn nữa)
Nhị Lê
Nguyên Phó tổng biên tập Tạp chí Cộng sản
Theo Báo Bình Phước