Theo cáo trạng truy tố ông Nguyễn Đức Chung (cựu Chủ tịch UBND TP Hà Nội) và 3 đồng phạm tội Chiếm đoạt tài liệu bí mật nhà nước, bản thân ông Chung thừa nhận hành vi, ăn năn hối cải.
Theo cáo buộc, quá trình điều tra, ông Chung đã thừa nhận, khai báo hành vi phạm tội, ăn năn hối cải.
Thời gian công tác, nhiều lần ông Nguyễn Đức Chung được các cấp khen thưởng vì có thành tích xuất sắc, được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Ông Nguyễn Đức Chung còn có tiền sử bị bệnh ung thư, phạm tội lần đầu, được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quy định tại các điểm s,v,x, khoản 2 và khoản 2 Điều 51 BLHS.
Ông Nguyễn Đức Chung |
Đối với cựu cán bộ công an Phạm Quang Dũng, VKSND Tối cao cho rằng, bị can này đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực hợp tác với CQĐT để làm rõ hành vi phạm tội của bản thân và người liên quan.
Ông Dũng đã tự thú, gia đình có công với cách mạng, có nhiều thành tích trong công tác, phạm tội lần đầu, được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ.
Theo cáo trạng, hai thuộc cấp của ông Nguyễn Đức Chung là Nguyễn Hoàng Trung (cựu chuyên viên Phòng thư ký biên tập, Văn phòng UBND TP Hà Nội) và Nguyễn Anh Ngọc (cựu Phó trưởng phòng Thư ký biên tập) đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, thừa nhận hành vi phạm tội, có nhiều thành tích trong công tác, phạm tội lần đầu.
Riêng bị can Dũng đã tích cưc hợp tác với CQĐT để làm rõ hành vi phạm tội của bản thân và người liên quan, đã tự thú, gia đình có công với cách mạng.
Vì thế, VKSND Tối cao cho rằng, hai bị can này được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Cáo buộc cho rằng, ông Nguyễn Đức Chung và Phạm Quang Dũng 5 lần chiếm đoạt 9 tài liệu thuộc danh mục bí mật nhà nước độ “Mật”, thuộc trường hợp phạm tội 2 lần trở lên.
Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự 1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm; b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả; c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết; đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội; e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra; g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra; h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn; i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức; l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra; m) Phạm tội do lạc hậu; n) Người phạm tội là phụ nữ có thai; o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên; p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; r) Người phạm tội tự thú; s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội; v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác; x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ. 2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. 3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt. |
Nguồn: vietnamnet