Nguồn cung toàn cầu bị ảnh hưởng đẩy giá gạo xuất khẩu lập đỉnh cao mới, giá gạo trong nước cũng tăng nóng. Lúc này, các lỗ hổng của ngành hàng tỷ USD bộc lộ rõ, nguy cơ đứt gãy chuỗi liên kết.
Thời cơ hiếm có, thách thức cũng nhiều
Trao đổi với PV bên lề sự kiện mới đây về tình hình thu mua lúa gạo xuất khẩu, ông Huỳnh Văn Thòn, Chủ tịch Tập đoàn Lộc Trời cho hay, doanh nghiệp của ông dù đã ký hợp đồng và đặt cọc trước tiền mua lúa cho nông dân, song, gần đây vẫn phải xem xét điều chỉnh giá thu mua vì “mọi thứ diễn biến quá nhanh”.
Thực tế, sau khi Ấn Độ cấm xuất khẩu gạo, giá mặt hàng này trên thị trường thế giới tăng vọt.
Dữ liệu từ Hiệp hội Lương thực Việt Nam cho thấy, giá gạo 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam ngày 9/8 leo lên mức 618 USD/tấn, gạo 25% cũng tăng lên 598 USD/tấn. Như vậy, gạo 5% tấm và 25% tấm đã tăng thêm 85 USD/tấn so với phiên giao dịch ngày 19/7 (thời điểm trước khi Ấn Độ cấm xuất khẩu gạo).
Theo ông Huỳnh Văn Thòn, Ấn Độ cấm xuất khẩu là cơ hội cho ngành gạo Việt. Việc tăng thu nhập cho người nông dân đã thấy rõ, tiếp đến là vị thế gạo Việt trên thị trường quốc tế tăng. Song, ngành gạo Việt cũng gặp đầy rẫy thách thức.
Quyền thương lượng đang chuyển từ doanh nghiệp sang người nông dân.
Chủ tịch Tập đoàn Lộc Trời chỉ rõ, giá lương thực tăng, quyền thương lượng sẽ chuyển từ người mua (doanh nghiệp) sang người bán (nông dân). Lúc này, người nông dân lời nhiều sẽ không quan tâm lắm tới việc tiết giảm chi phí sản xuất để có giá thành hợp lý cũng như chất lượng gạo tốt hơn.
Trước đây, nông dân cần người tiêu thụ lúa, họ liên kết với doanh nghiệp. Còn bây giờ, doanh nghiệp phải đi tìm họ để mua. Cầu quá cao dẫn đến liên kết lỏng lẻo, dễ bị phá vỡ. Đây chính là nguy cơ tiềm ẩn, ông lo ngại.
“Doanh nghiệp đang điều chỉnh giá thu mua lúa trong dân, nhưng cũng chỉ tăng thêm một chút, tăng nhiều thì chúng tôi không đảm bảo lợi nhuận khi xuất khẩu. Bị kẹt ở giữa, các doanh nghiệp xuất khẩu phải linh hoạt để giải quyết giữa phần tăng giá bán gạo, tăng giá mua lúa cũng như bù đắp phần lỗ cho các hợp đồng đã ký từ trước”, ông Thòn nói.
Ông Nguyễn Thái Bình, Tổng giám đốc Công ty CP Nông nghiệp công nghệ cao Trung An, nhận định, Ấn Độ cấm xuất khẩu gạo chỉ là giọt nước tràn ly. Việc thế giới đang khan hiếm lương thực là vấn đề từ 10 năm nay. Năm sau, nguy cơ cao hơn năm trước. Đây chính là cơ hội của ngành hàng lúa gạo Việt Nam.
“Cơ hội lớn nhưng một số doanh nghiệp vẫn thua lỗ. Rõ ràng, sản xuất đang không gắn liền với thị trường. Mối liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp lỏng lẻo. Điều này xuất phát từ doanh nghiệp, doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng nhưng không làm. Có khi chưa nắm nguồn hàng đã ký hợp đồng thì rủi ro đến là đương nhiên”, ông Bình phân tích.
Theo ông Bình, mô hình “cánh đồng liên kết” Bộ NN-PTNT triển khai cách đây đã 10 năm. Tuy nhiên, ở ĐBSCL, những mô hình như thế đếm trên đầu ngón tay, còn phần lớn kinh doanh manh mún. Do đó, cơ hội không thể đến với các doanh nghiệp đó được.
Phải chơi “ván bài lật ngửa”
Trao đổi với PV. VietNamNet, chuyên gia lúa gạo GS.TS Võ Tòng Xuân khẳng định, lúc này, người nông dân phải bán lúa ở mức giá cao hơn chứ không chấp nhận bán theo giá cũ.
Theo ông, cần chấm dứt tình trạng mạnh ai nấy làm, nông dân tự lo sản xuất, thương lái gom theo kiểu thương lái, doanh nghiệp ngồi chờ có đơn hàng rồi kêu thương lái thu gom. Phải chuyển sang mô hình liên kết, sản xuất theo đơn đặt hàng.
Mối liên kết doanh nghiệp – nông dân trong ngành lúa gạo còn lỏng lẻo.
Để ổn định, doanh nghiệp cần ký hợp đồng xuất khẩu dài hạn với đối tác nhập khẩu. Ví dụ, ký các hợp đồng tương lai, xác định giá gạo tương lai. Trong các hợp đồng tương lai, có những điều khoản điều chỉnh giá lên xuống. Nếu có biến động, hai bên ngồi lại thoả thuận để tránh bị thiệt hại.
Điều này không chỉ có lợi cho doanh nghiệp mà cho cả người nông dân. Bởi, nông dân sẽ hợp tác sản xuất, liên kết thành chuỗi cung ứng, doanh nghiệp có nguồn để xuất khẩu. Ở đây, vai trò của nhà nước là giúp doanh nghiệp xây dựng vùng nguyên liệu.
Quan trọng là nông dân cần phải đổi mới. Họ phải vào hợp tác xã, liên kết với doanh nghiệp chứ không thể “chơi” với thương lái như trước, rất bấp bênh.
Về phần mình, doanh nghiệp cũng phải chơi “ván bài lật ngửa” từ đầu với nông dân, thông tin rõ giá bán gạo xuất khẩu. Với giá đó, mức giá lúa gạo thu mua của nông dân là bao nhiêu. Doanh nghiệp được lời bao nhiêu phần trăm, nông dân được lời bao nhiêu. Như vậy, sẽ không xảy ra tình trạng đầu cơ và ghim hàng, chờ giá tăng, vị chuyên gia nhấn mạnh.
Phó cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT) Lê Thành Tùng khẳng định, ngành lúa gạo muốn phát triển bền vững cần có sự vào cuộc của nhiều bên. Trong đó, nhà nước phải đẩy mạnh quy hoạch vùng sản xuất, vùng nguyên liệu tập trung gắn với hợp tác xã.
Doanh nghiệp cũng phải chuyển sang sản xuất bền vững gắn với hợp tác xã. Nông dân sản xuất đơn lẻ phải vào hợp tác xã, phải vào các cánh đồng lớn để có quy trình canh tác đạt chuẩn theo yêu cầu người mua, hình thành chuỗi liên kết từ sản xuất, sơ chế, chế biến cho tới xuất khẩu.
Tất cả các tác nhân trong chuỗi, khi thị trường lên giá có thể cùng chia lợi nhuận và khi thị trường xuống giá, các bên cùng nhau san sẻ rủi ro. Như vậy, ngành lúa gạo Việt Nam mới bền vững được.
Theo số liệu của Bộ Công Thương, năm 2022, xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt 7,1 triệu tấn, cao nhất trong 10 năm, đạt giá trị 3,45 tỷ USD.
Ước tính, đến hết tháng 7/2023, Việt Nam xuất khẩu 4,83 triệu tấn gạo, trị giá 2,58 tỷ USD, tăng 18,7% về lượng và tăng 29,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Đáng chú ý, biến động giá gạo xuất khẩu đang tác động tới giá lúa, gạo tiêu dùng trong nước.
Cụ thể, từ ngày 20/7 đến 3/8, giá lúa trung bình tại ruộng tăng 518 đồng/kg, lên mức 7.214 đồng/kg; lúa tại kho tăng gần 700 đồng/kg, đạt 8.729 đồng/kg; gạo xát trắng loại 1 tăng mạnh 2.101 đồng/kg, lên 13.638 đồng/kg; gạo 5% tấm cũng vọt lên mức 13.650 đồng/kg, tăng 2.100 đồng/kg; gạo 15% và 25% tấm lần lượt đạt mức 13.350 đồng/kg và 13.075 đồng/kg, tăng 2.042 đồng/kg và 2.009 đồng/kg.
Nguồn: vietnamnet