Với đức tính thông minh, hiếu học, người Việt sớm khẳng định được trí tuệ của mình trong buổi đầu lịch sử. Trong đó, nhiều người đã trở thành trạng nguyên nơi đất khách. Không chỉ nổi danh trong nước, nhiều nhân tài Việt còn được phong “Lưỡng quốc trạng nguyên”. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, Khương Công Phụ sinh năm 731 và mất năm 805, tự là Đức Văn, người làng Sơn Ổi, xã Cổ Hiển (nay là làng Tường Vân, xã Định Thành, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa). Ngay từ khi còn nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, học hành chẳng bao lâu đã thuộc làu kinh sách. Dưới đời vua Đường Đức Tông, ông sang kinh đô Trường An dự thi. Vượt qua hàng ngàn sĩ tử của Trung Quốc và các nước lân bang, ông đỗ đầu. Sau đó, Khương Công Phụ được vua Đường phong chức Hiệu thư lang, rồi thăng dần đến Tể tướng, chức quan đứng hàng đầu triều đình phong kiến.
Minh họa: S.H
Hiện nay, đền thờ Khương Công Phụ, cùng những sắc phong mà các triều đại phong kiến đã ban cho ông, vẫn còn ở Yên Định, Thanh Hóa. Khương Công Phụ là trường hợp “có một không hai” trong lịch sử phong kiến ở Việt Nam, khi là người Việt đầu tiên thi đỗ trạng nguyên ở xứ người, giữ vị trí cao trong bộ máy cai trị của cả đất nước Trung Hoa. Giới nho sĩ qua nhiều thế hệ đều ca ngợi Khương Công Phụ không chỉ tài năng văn chương, mà còn có phẩm chất, tư cách của một “kẻ sĩ” xuất chúng.
Còn Mạc Đĩnh Chi là một trong những trạng nguyên nổi bật nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Ông tự là Tiết Phu, hiệu Tích Am, quê làng Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Ông vốn là hậu duệ 7 đời của trạng nguyên Mạc Hiển Tích thời Lý. Năm 1304, ông thi đỗ trạng nguyên khi mới chỉ 24 tuổi, ra làm quan cho 3 triều vua, gồm Trần Anh Tông, Trần Minh Tông và Trần Hiến Tông. Mạc Đĩnh Chi được thăng đến chức Tể tướng. Ông 2 lần được cử sang phương Bắc vào các năm 1308 và 1322. Ngay trong chuyến đi đầu tiên, ông đã chứng minh tài năng, cốt cách của người Việt, buộc vua Nguyên phải phong mình làm trạng nguyên Bắc triều (lưỡng quốc trạng nguyên).
Nguyễn Trực – trạng nguyên của nhà Minh: Nguyễn Trực sinh năm 1417, trong một gia đình nho học. Năm 1442, ông đỗ đầu kỳ thi đình, trở thành trạng nguyên đầu tiên của triều Lê. Ông đồng thời cũng là vị trạng nguyên đầu tiên được khắc tên tại bia đá ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Sau khi thi đỗ, ông được vua Lê Thánh Tông tin dùng, phong nhiều chức vụ quan trọng của triều đình. Đặc biệt, với trí tuệ uyên bác, hiểu sâu, biết rộng, ông thường được cử tiếp sứ giả các nước trong khu vực, đồng thờiđược cử đi sứ phương Bắc. Trong 1 lần đi sứ, nhân dịp triều đình nhà Minh mở khoa thi tuyển chọn nhân tài, Nguyễn Trực dự thi và đỗ đầu, qua đó trở thành “lưỡng quốc trạng nguyên”.
Nguyễn Đăng Đạo (1651-1719) là người thôn Hoài Thượng, tên nôm “Bịu Thượng”, nay thuộc xã Liên Bão, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Vì thế, dân gian gọi ông là Trạng Bịu. Ngay từ khi còn nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh hoạt bát, học rộng hiểu nhiều. Trong khoa thi đình năm 1683, ông đỗ trạng nguyên. Sau đó, ông được bổ chức Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, thăng chức Thượng thư bộ Lễ kiêm Đông các Đại học sĩ nhập thị kinh diên thọ lâm bá, Thượng thư bộ Lại, Thượng thư bộ Binh kiêm Bồi tụng và thăng đến chức Tham tụng (tể tướng). Đầu năm 1697, ông được cử đi sứ nhà Thanh. Trong chuyến đi này, bằng tài năng và trí tuệ của mình, Nguyễn Đăng Đạo đã làm kinh ngạc cả triều đình nhà Thanh cùng sứ thần các nước. Khâm phục trước tài năng của vị trạng nguyên người Việt, vua Thanh phong ông là trạng nguyên của Bắc triều, ban mũ áo, võng lọng cho ông vinh quy về nước. Sau khi ông mất, vua Lê Dụ Tông ban tặng 4 chữ vàng “Lưỡng quốc trạng nguyên”.
Lời bàn:
Ở giữa kinh đô của đế quốc Nguyên – Mông hùng mạnh, ngay sân chầu thiên tử và ở giữa tướng phủ, 1 nhà nho nhỏ bé của 1 nước nhỏ mà dám xé trướng và đòi “bắn rụng mặt trời”, há không phải chuyện tầm thường? Cái uy thế, sức mạnh vô địch của Đại Nguyên kia rồi cũng sẽ đi xuống và bị bắn hạ, chỉ có đạo đức thánh hiền và những gì chân chính mới tồn tại, được ca tụng ngàn đời. Và xưa nay việc biên giới là vấn đề trọng yếu của đất nước, là mối xung đột lớn giữa 2 nước, nhưng Nguyễn Đăng Đạo bằng học vấn uyên thâm, trí thức thông tuệ, lối đối ngoại cương nhu kết hợp nhuần nhuyễn khiến vua Thanh cùng quần thần, sứ bạn phải nể phục. Khâm phục trước tài năng của vị trạng nguyên người Việt, vua Thanh phong ông là trạng nguyên của Bắc triều, ban mũ áo, võng lọng cho ông vinh quy về nước…
Mặc dù đã mấy trăm năm qua nhưng những giai thoại về các vị trạng nguyên Khương Công Phụ, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trực, Nguyễn Đăng Đạo còn lưu truyền đến ngày nay cho thấy, danh thần nước Việt thời nào cũng có. Song, điều mà người đương thời cũng như hậu thế đáng kính và tôn vinh là tất cả các vị trạng nguyên này đều là những đại thần trung trực, liêm chính, lại có lòng nhân từ quảng đại, đồng thời còn là những nhà ngoại giao đại tài. Sách lược ngoại giao của tổ tiên ngày xưa vẫn đang được hậu thế hôm nay phát huy trong công cuộc bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới và hải đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Theo Báo Bình Phước