Nguyễn Đăng Tuân, tự Tín Phu, hiệu Thận Trai, thụy Văn Chính. Ông xuất thân trong gia đình nho học, tính tình thuần chất, lối học chủ về nghĩa lý. Đầu đời Gia Long (1802), do có học vấn văn học ông được cống cử vào làm việc ở Viện Hàn Lâm, rồi được bổ nhiệm làm quan Tri huyện, Ngọc Sơn (nay thuộc Tĩnh Gia, Thanh Hóa), rồi được điều về kinh sung chức Tư giảng ở Công phủ, sau làm Thị giảng ở cung Chấn Hanh.

Năm Minh Mạng thứ 1 (1820), ông được bổ nhiệm làm Thiêm Sự (đời Gia Long chức quan giúp việc Trưởng quan) bộ Lễ. Triều Nguyễn bắt đầu đặt Văn phòng giao cho Nguyễn Đăng Giai và một số quan để coi giữ đồ thượng bảo và văn thư, chương tấu, bản đồ, sổ sách… Lúc làm ở bộ Lễ, Nguyễn Đăng Tuân đã có đóng góp rất lớn cho triều đình nhà Nguyễn mới ứng vị lập triều. Nguyễn Đăng Tuân dâng sớ xin đình các công việc của triều đình với lý do: Quân – dân đang bị bệnh tật, không nên bắt làm nhọc lắm. Dương thịnh thì âm suy, cũng là một nghệ thuật để ngăn tai biến.

Minh họa: S.H

Đặc biệt ông dâng sứ 6 điều quan trọng: Đặt viện Ngự sử để đàn hặc sửa chữa phương thức làm quan. Đặt chức Thái phỏng sứ để xét nghiệm thu người tài, loại người kém. Xin chọn quan Kinh, người nào thanh liêm, trung thực, đứng đắn, trong sạch thì sai đi các châu, huyện, xét chính tích, xem tình dân để xem các thủ thần có giỏi hay không và để thấu lợi bệnh của tiểu dân. Bớt tiêu phí vô ích, bớt những viên chức thừa đi… Đặt nhà học ở các doanh trấn châu huyện. Xin chọn những bậc lão sư, túc nho (có đủ kiến thức) làm trợ giáo. Mở khoa Ân thí. Cử hành việc thờ tự gia ân. Và lời tâu này của ông được nhà vua sai đình thần lần lượt thi hành.

Năm Minh Mạng thứ 2 (1821), nhà vua lấy thự bảo khanh Nguyễn Đăng Tuân làm Cai bạ Quảng Nam. Tháng 9 năm đó, vua triệu Cai bạ Quảng Nam Nguyễn Đăng Tuân về kinh, sai lấy nguyên hàm, sung chức Quang lộ Tự khanh, tham bồi công việc ở bộ Lễ. Tháng 3-1823, ông làm biện lý công việc ở bộ Binh, sau đó được giữ chức thự Tham tri bộ Lễ. Năm Minh Mạng thứ 8 (1829), ông được bổ làm Hộ tào Bắc thành (cơ quan giữ việc vận chuyển lương từ Quảng Bình trở ra), rồi chuyển làm Binh tào vào làm Hữu Tam tri bộ Lễ.

Năm Minh Mạng thứ 11 (1832), nhà vua chủ trương sửa chữa luật lệ, ông được sung chức Phó tổng tài (chức vụ tương đương lục bộ thời bấy giờ). Năm 1833, ông cử hàm Tả tham tri bộ Lễ. Minh Mạng năm thứ 14 (1835), ông đến kinh chầu mừng lễ khánh tiết nhà vua, nhà vua làm thơ tặng cho. Minh Mạng năm thứ 16 (1837), ông được sung chức sư bảo của hoàng tử (thầy dạy các hoàng tử).

Năm 1837, vua ban hàm Thượng thư Tham tri bộ Lễ cho Nguyễn Đăng Tuân. Hàm Thượng thư bộ Lễ, nhưng vẫn sung làm thầy dạy các hoàng tử, trong đó có vua Thiệu Trị sau này. Vua đánh giá, Đăng Tuân theo hầu đã lâu, học hành vào bậc lão thành, vua đã đặc biệt yêu thương, lại thấy hoàng tử, hoàng tôn đến học ngày càng nhiều nên sai đề cử người mà mình có thể sung chức giảng tập và chánh tự…

Năm đó, Nguyễn Đăng Tuân lại tâu: Thần nghe, đức tất phải học thì sau mới thành, học tất phải giảng thì sau mới rõ, vì là nguồn vực của thầy và bạn có tự đem lại dần dần. Nay hoàng tử ra mở phủ riêng, ngày càng thêm lên, mà học đường giảng tập có 10 người, chính tự có 5 người, xin đặt mỗi chức 5 người nữa đủ để giảng tập. Lại xin đặt chức hoàng tử tám thiện 2 người, để sớm hôm quanh hiền cùng nhau ngõ hầu có bổ ích. Lời tâu này cũng được nhà vua chấp thuận.

Vua Minh Mạng mất, vua Thiệu Trị lên ngôi (năm 1841), ông vào viếng Quốc tang. Vua Thiệu Trị an ủi, hỏi han, toan bổ làm Thượng thư bộ Lễ, ông khẩn thiết xin từ, vua bèn ban thật hậu rồi cho về. Ông làm bài biểu tạ nói rằng: Chỉ xin rộng một đạo hiếu để ban ra luân thường, rõ chín đạo thường mà lập đạo trị nước. Chín đạo đó là: Sửa mình. Thân yêu trăm họ. Tôn trọng người hiền. Kính trọng đại thần. Thể tất quân thần. Thương yêu muôn dân. Khuyên lơn trăm họ. Phủ ủy người phương xa. Bao dung nước chư hầu.

Lời bàn:

Theo nội dung của giai thoại trên, tất cả những lời tâu của Nguyễn Đăng Tuân đã thể hiện rõ tư tưởng tiến bộ của ông và chính tư tưởng này đã giúp vua trị nước yên dân. Chính vì thế sử nhà Nguyễn đã có đoạn chép về ông như sau: Nguyễn Đăng Tuân tính thận trọng, ít nói, trải thờ ba triều sung làm chức Báo phó lâu năm, sau khi về, vua nhớ khôn nguôi. Làm việc gì cũng nên để đức có thừa không hết về sau, làm quan nên lấy thanh bạch mà để cho con cháu. Một đời làm quan đại triều, làm thầy dạy hết lòng phụng sự và được vua cả trọng, dân kính nể như Nguyễn Đăng Tuân thì quả là người sống xứng đáng làm đẹp cho dòng tộc, cho quê hương, đất nước và hậu thế muôn đời sau.

Có thể khẳng định rằng, đạo làm quan của Nguyễn Đăng Tuân là một tấm gương sáng để hậu thế soi chung và tôn vinh. Càng kính nể hơn khi ông về già và được vua ban sắc phong, nhưng ông lại từ chối hết những gì vua ban thưởng “Thần chỉ xin kính lĩnh một kỳ để được vinh hạnh về của vua ban cho mà tỏ rõ đạo Khuyến trung, Khuyến hiếu của Hoàng Thượng…” Chỉ riêng điều này từ xưa đến nay trong thiên hạ quả là quá hiếm và ngày nay thì lại càng hiếm hơn. Vì thời xưa chỉ thấy từ chối phần thưởng vua ban chứ không có ai “chạy” thành tích, “chạy” huân chương, “chạy” bằng khen như ngày nay.

Theo Báo Bình Phước

Từ khóa : quân thần Nguyễn Đăng Tuânvua Minh Mạngvua Thiệu Trị

Các tin liên quan đến bài viết