Đề thi môn Ngữ văn chuyên của Sở GD-ĐT Hà Nội năm nay nhận được phản hồi khá tốt từ những giáo viên dạy văn và đặt ra cho những người quan tâm nhiều suy nghĩ.
Sáng nay (ngày 14/6), các thí sinh dự thi vào lớp 10 chuyên Văn trường Chuyên Hà Nội – Amsterdam, Nguyễn Huệ, Sơn Tây và Chu Văn An đã trải qua bài thi môn Ngữ văn kéo dài 150 phút.
Học sinh sống sâu sắc sẽ có nhiều “đất diễn” ở phần nghị luận xã hội
Cô Nguyễn Đức Tâm An, giáo viên dạy Ngữ văn của Trường THCS Ngô Sĩ Liên (Hà Nội) đánh giá đề thi chuyên Văn năm nay “giản dị và có chiều sâu”.
Theo cô Tâm An, cấu trúc đề thi quen thuộc như mọi năm, gồm 2 phần Nghị luận xã hội và Nghị luận văn học.
Tuy nhiên, biểu điểm có điều chỉnh so với kì thi năm trước. Bài Nghị luận xã hội giảm 0.5 điểm và Nghị luận văn học tăng 0.5 điểm. “Đây là điều chỉnh khá hợp lý để thí sinh tập trung hơn cho phần phân tích tác phẩm văn học ở phần II” – cô Tâm An nhận định.
Ở phần Nghị luận xã hội, theo cô An, ngữ liệu mới mẻ, cập nhật, lấy từ tác phẩm phổ biến, gần gũi trong giới trẻ và được yêu thích, tìm đọc.
Vấn đề đặt ra có chiều sâu, khơi gợi được suy tư của các thí sinh ở ngưỡng cửa trưởng thành, lứa tuổi có nhiều biến chuyển trong nhận thức và ngẫm nghĩ về bản thân và thế giới xung quanh.
“Với những học sinh sống sâu sắc và có suy nghĩ già dặn, các em sẽ có nhiều “đất diễn” trong câu 3.5 điểm này” – cô An nói.
Đề thi chuyên Văn lớp 10 của Hà Nội |
Tổ trưởng tổ Ngữ văn, Trường THPT Chuyên Lương Văn Chánh (Phú Yên) – thầy Hồ Tấn Nguyên Minh cũng bày tỏ sự đồng cảm với phần Nghị luận xã hội của đề thi này. Theo thầy Minh, câu nghị luận xã hội của đề thi đặt ra vấn đề biết chấp nhận và yêu thương những điều không hoàn hảo của bản thân và cuộc sống.
“Giữa lúc mà không ít người rơi vào ngộ nhận, ảo tưởng, mải mê chạy theo những điều hoàn hảo, cứ yêu cầu bản thân và mong muốn cuộc sống phải đạt được điểm 10 hoàn hảo thì vấn đề đặt ra thiết thực và giàu ý nghĩa. Cách hỏi của câu này cũng tương đối mở chứ không máy móc như mọi năm” – thầy Minh nhận xét.
‘Yêu những điều không hoàn hảo’ vào đề thi chuyên Văn lớp 10 |
“Câu nghị luận xã hội khá minh triết từ nhan đề cuốn sách, phần trích dẫn cho đến câu lệnh đều giúp học sinh nhanh chóng xác định đúng vấn đề cần bàn luận, đó là “Yêu thương chính những điều không hoàn hảo”” – đây là nhận định của cô Trịnh Thu Tuyết, nguyên giáo viên dạy Văn, Trường THPT Chu Văn An (Hà Nội). Theo cô Tuyết, đề bài cũng có khả năng gợi mở cho học sinh những nghịch lí, những bí ẩn kì diệu trong tâm hồn con người khi chúng ta, thậm chí có thể yêu thương chính những vênh lệch, hao hụt, khuyết thiếu mà hờ hững với những sự được coi là hoàn hảo, toàn vẹn…
Tuy nhiên, theo cô Tuyết, câu lệnh của phần này có ít nhất hai định hướng. Thứ nhất là định hướng về đối tượng nghị luận, đó không phải là chủ thể cảm nhận mà là đối tượng cảm nhận, cụ thể, đó là “những điều chưa hoàn hảo mà em yêu thương” – trong khi cái hay, sâu, kì diệu của vấn đề mở ra không chỉ ở đối tượng mà chủ yếu lại là chủ thể. Thứ hai là định hướng về xúc cảm của học sinh khi chỉ có một lựa chọn duy nhất là “yêu thương” những điều chưa hoàn hảo nào đó các em nhắc tới. Học sinh sẽ không có không gian độc lập cho lựa chọn thái độ hoặc xúc cảm trước “những điều chưa hoàn hảo” – bởi không nhất thiết chỉ có sự yêu thương, chấp nhận hay bao dung trước “những điều chưa hoàn hảo” của mình, của người!
“Với câu lệnh: “Hãy trình bày suy nghĩ của em về quan niệm trên”, có lẽ các em sẽ rộng đất hơn cho suy ngẫm chăng?” – cô Tuyết chia sẻ quan điểm.
Nhận xét về đề thi Ngữ văn chuyên của Hà Nội, thầy Nguyễn Phước Bảo Khôi, Giảng viên khoa Ngữ văn, Trường ĐH Sư phạm TP.HCM, cho rằng cách đặt vấn đề rõ ràng, hỗ trợ tốt cho học sinh khi làm bài. Cả hai vấn đề được nêu ra đều là những vấn đề gợi được nhiều suy nghĩ, thậm chí kích thích được tư duy phản biện của học sinh khi bàn bạc, mở rộng vấn đề. Tuy nhiên, câu hỏi gây bất ngờ và mang tính phân hoá chính là câu Nghị luận xã hội.
Nhưng cũng như cô Tuyết, thầy Khôi cho rằng nếu điều chỉnh lại cách hỏi ở câu này sẽ phù hợp hơn.
“Vấn đề nghị luận được nhắc lại nhiều lần trong đề, giúp học sinh tập trung suy nghĩ. Cách ra đề này hỗ trợ tốt cho học sinh, song người ra đề có thể điều chỉnh như sau: “Tác giả Hae Min có cuốn sách với nhan đề là “Yêu những điều không hoàn hảo”. Trình bày suy nghĩ của em về vấn đề gợi ra từ nhan đề trên” – thầy Khôi góp ý. Theo thầy Khôi, nếu ra đề có độ mở vừa phải như vậy sẽ phù hợp hơn với đối tượng học sinh thi vào lớp chuyên.
“Tuy vậy, vẫn có thể đánh giá cao vấn đề nghị luận. Chính biên độ rất rộng của nhận thức sẽ đem đến cho học sinh “đất diễn” rất tốt. Dĩ nhiên, giúp chọn được thí sinh xứng đáng”.
Băn khoăn trong phần Nghị luận văn học
Ở phần Nghị luận văn học, cô Tâm An nhìn nhận ý kiến của PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp được trích dẫn không đánh đố thí sinh về mặt thuật ngữ, nhưng vẫn thách thức được tư duy logic của thí sinh khi phải phân tích và làm rõ mối quan hệ giữa hai phạm trù “mới” và “hay”.
Phạm vi tác phẩm để thí sinh chọn phân tích, làm rõ cách hiểu của mình khá rộng rãi, cho phép các em được tự do thoả sức lựa chọn từ các tác phẩm thơ sáng tác sau 1975 trong chương trình Ngữ văn 9: Viếng Lăng Bác, Sang thu, Ánh trăng, Mùa xuân nho nhỏ, Nói với con.
Hôm nay, gần 10.000 học sinh thi vào lớp 10 chuyên |
Thế nhưng, thầy Nguyên Minh không cùng nhận định. Thầy Minh lại cho rằng “Bản thân nhận định thì không có vấn đề gì. Nhưng với yêu cầu làm rõ cái mới tạo ra cái hay trong một số bài thơ sau 1975, để giải quyết được phải tạo ra một sự đối sánh giữa văn học trước 1975 và sau 1975 để tìm ra sự mới mẻ, khác biệt về thi pháp. Đây không phải là một vấn đề đơn giản”.
Thầy Minh nghĩ “đây là vấn đề quá tầm, không nên đặt ra cho học sinh lớp 9 dù là hệ chuyên”.
Bày tỏ sự khen ngợi với phần Nghị luận văn học, “cho đến thời điểm này, đây là đề thi bàn về phẩm chất của một tác phẩm nói chung và thơ nói riêng ổn nhất”, nhưng cũng như thầy Minh, thầy Bảo Khôi nhận xét “có một chút đáng tiếc”.
“Đề thi có lẽ không nên nêu thẳng vấn đề cần nghị luận (cái mới góp phần tạo nên cái hay) và giới hạn phạm vi dẫn chứng (những bài thơ sau năm 1975). Chính phát ngôn của PGS. Nguyễn Đăng Điệp sẽ gợi mở nhiều suy nghĩ cho HS hơn, cũng như việc cho phép sử dụng dẫn chứng đa dạng sẽ giúp chọn lựa được những học sinh có kiến văn rộng và cảm nhận sâu, tinh tế”.
Cô Trịnh Thu Tuyết thì cho rằng cần nói thêm về biên độ ý nghĩa hơi rộng của từ “mới” trong cụm từ “cái hay nào cũng mới” – vì cái mới hàm chứa khá nhiều bình diện và mức độ, có thể là một cuộc cách mạng, có thể chỉ là đôi chút phá cách – nhiều khi một bài thơ hay chỉ bởi một tứ mới, một phá cách nho nhỏ trong hình thức hoặc nội dung, thậm chí vẫn trên nền cái truyền thống về thể loại, niêm luật hay ý tưởng…
“Ví dụ Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu là một kiệt tác, trong đó tác giả đã có phá cách mới mẻ về niêm luật dù vẫn trong cấu trúc của thất ngôn bát cú. Nhưng chính chi tiết này lại tiềm tàng khả năng bàn luận, phản biện, trao đổi cho những học trò có năng lực văn chương, nếu có câu lệnh mang tính mở”.
Theo cô Tuyết, câu lệnh của đề này đã tạo ra giới hạn cho sự cảm thụ của học trò khi xác định rõ ngữ liệu các em được sử dụng để chứng minh quan niệm trong đề. “Giả thiết các em không thấy những “bài thơ Việt Nam được sáng tác sau năm 1975 trong chương trình Ngữ văn 9” là hay, cũng không tìm thấy cái mới, tất yếu các em phải ép mình khen hay, khen mới. Rất cần tháo những cái khung giới hạn cho các em được tự do suy tưởng và xúc cảm, nhất là với học sinh chuyên văn”.
Nguồn: vietnamnet