Cuộc chiến thương mại khiến Mỹ và những quốc gia khác nỗ lực tìm cách giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc đối với các loại hàng hóa chiến lược.
Cách đây không lâu, chính quyền Tổng thống Trump đã bàn về việc đưa chuỗi cung ứng từ Trung Quốc về Mỹ, và thậm chí công khai ý tưởng xây dựng một nhóm các nước đồng minh tại châu Á để giúp sản xuất hàng hóa thiết yếu. Tháng trước ông Trump thậm chí còn nói Mỹ sẽ “tiết kiệm được 500 tỷ USD” nếu cắt đứt quan hệ với Trung Quốc.
Tuy nhiên, các cuộc phỏng vấn của Bloomberg với hàng chục quan chức chính phủ và các nhà phân tích khu vực châu Á – Thái Bình Dương cho thấy các nỗ lực tái cấu trúc chuỗi cung ứng do Mỹ dẫn đầu đang hơi thiếu thực tế.
Mặc dù chính phủ Mỹ đang nỗ lực giành lấy các khoản đầu tư, chẳng hạn như Công ty Sản xuất Chất bán dẫn Đài Loan (TSMC) đã lên kế hoạch xây dựng nhà máy bán dẫn tiên tiến ở Mỹ, thì việc phá hủy một hệ thống kiên cố như chuỗi cung ứng Trung Quốc không phải là chuyện đơn giản, nhất là khi nhiều công ty đang chật vật để tồn tại.
Nhiều khả năng đại dịch Covid-19 sẽ đẩy nhanh sự thay đổi vốn đã xuất hiện do các biến động trên thị trường, khi tiền lương và chi phí tại Trung Quốc gia tăng trong vòng một thập kỷ qua, dẫn đến một cuộc di cư của ngành sản xuất giá trị thấp, mà phần lớn là đến Đông Nam Á.
Chiến tranh thương mại Mỹ – Trung đang thay đổi cả thế giới. |
Thay đổi này diễn ra bất chấp mong muốn tách rời hai nền kinh tế lớn nhất thế giới của một số quan chức trong chính quyền ông Trump, trong bối cảnh Washington và Bắc Kinh tranh chấp trên nhiều phương diện, từ virus corona, mạng 5G đến đặc khu hành chính Hồng Kông.
“Vì một số lý do nhạy cảm, doanh nghiệp phải chấp nhận phụ thuộc vào chuỗi cung ứng của Trung Quốc. Hậu Covid-19, sẽ khó khăn hơn để chuyển chuỗi cung ứng ra khỏi thị trường tỉ dân này vì dòng tiền yếu, nhân viên phải làm việc tại nhà hoặc dần dần quay trở lại văn phòng và môi trường kinh doanh cũng thay đổi”, bà Deborah Elms thuộc Trung tâm thương mại châu Á nhận định.
Mặc dù phần lớn mạng lưới thương mại thế giới đều được bảo toàn dù các nước ban bố lệnh phong tỏa để chống dịch, thiệt hại kinh tế vẫn sẽ thúc giục giới chính trị tăng cường tự chủ hàng hóa và tìm phương án thay thế cho Trung Quốc.
Hồi tháng 4, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Mike Pompeo cho biết Mỹ đang cùng các nước Australia, New Zealand, Nhật Bản, Ấn Độ và Hàn Quốc thảo luận về vấn đề chuỗi cung ứng.
Chiến lược “Trung Quốc + 1” có hiệu quả?
Các ngành công nghiệp nằm trong chiến lược “Trung Quốc + 1” sẽ bao gồm dược phẩm, thiết bị y tế, chất bán dẫn, ô tô, hàng không vũ trụ, dệt may và hóa chất.
Tuy nhiên, ý tưởng này dường như đang thiếu một nền tảng vững chắc. Bộ Ngoại giao Mỹ không có thẩm quyền về thương mại, còn quan chức ở các nước châu Á cho biết hiện chưa có cuộc đàm phán chính thức nào diễn ra.
Dù vậy, một số quốc gia khác đang tự mình chuyển dây chuyền sản xuất ra khỏi Trung Quốc, đặc biệt sau khi chuỗi cung ứng bị gián đoạn vì Covid-19. Đài Loan và Nhật Bản, hai trong số những nhà đầu tư lớn nhất vào Trung Quốc đang đi đầu làn sóng này.
Năm 2019, các quan chức Đài Loan đã khuyến khích các công ty của mình gây dựng chuỗi cung ứng bên ngoài Trung Quốc, thông qua một đạo luật hỗ trợ tiền thuê nhà, tài chính giá rẻ, giảm thuế và đơn giản hóa việc đầu tư vào Đài Loan. Động thái này đã giúp nền kinh tế của hòn đảo này sống sót qua cuộc chiến thương mại vào năm trước đó và thu về hơn 1 nghìn tỷ Đài tệ (33,5 tỷ USD) cam kết hoặc đầu tư trong nước và nhiều hơn nữa ở nước ngoài.
Nhật Bản gần đây cũng đã thực hiện chính sách tương tự khi chính phủ của Thủ tướng Shinzo Abe hỗ trợ ngân sách khoảng 220 tỷ yên (2 tỷ USD) cho các công ty chuyển dây chuyền sản xuất về nước và 23,5 tỷ yên đối với những công ty chuyển hướng sang sản xuất ở nước khác.
“Đã đến lúc chúng ta phải thực sự xem xét lại tính bền vững của các chuỗi cung ứng”, Chủ tịch Tập đoàn Hitachi, ông Hiroaki Nakanishi cho biết. “Việc đột ngột đưa tất cả các chuỗi sản xuất trở lại Nhật Bản là không thực tế. Thế nhưng, nếu chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào một nước nào đó và khi họ đóng cửa nền kinh tế, hậu quả xảy đến sẽ rất lớn.”
Bà Anwita Basu, trưởng bộ phận nghiên cứu rủi ro các nước châu Á tại Fitch Solutions cho biết, nhiều công ty đã bắt đầu áp dụng chiến lược sản xuất ‘Trung Quốc + 1” kể từ khi chiến tranh thương mại Mỹ – Trung nổ ra vào năm 2018, trong đó Việt Nam là nền kinh tế hưởng lợi rõ rệt.
Mặc dù đại dịch sẽ tạo ra một cú hích khác cho xu hướng dịch chuyển sản xuất khỏi Trung Quốc, bà Anwita dự đoán rằng quá trình này sẽ chững lại vì Trung Quốc “vẫn tự hào là nước có tổng sản lượng công nghiệp hàng năm lớn đến mức ngay cả một liên minh gồm nhiều nước cũng sẽ phải rất chật vật mới đáp ứng được một phần của mức sản lượng này.”
Đứng trước sự thay đổi của các quốc gia/ khu vực, Trung Quốc vẫn bảo toàn được một số lợi thế chính. Năm ngoái, 38% trong 11 tỷ USD vốn đầu tư ra nước ngoài của Đài Loan đã chảy vào đại lục, trong khi của Nhật Bản là 10%.
Hồi giữa tháng 5, ông Young Liu, chủ tịch của Hon Hai Precision có trụ sở tại Đài Loan, đơn vị Foxconn sản xuất iPhone tại các nhà máy ở Trung Quốc, cho biết hãng khó có thể di chuyển dây chuyền lắp ráp thiết bị di động đến Mỹ do hạn chế về lượng công nhân cần thiết.
“Trung Quốc là thị trường khó nền kinh tế nào bì kịp vì sở hữu lực lượng lao động lành nghề và mạng lưới nhà cung ứng sâu rộng. Ngoài ra, Bắc Kinh còn ra sức hỗ trợ và cung cấp cơ sở hạ tầng đáng tin cậy cho doanh nghiệp hoạt động trong nước”, nhà phân tích Dan Wang của Gavekal Dragonomics cho hay.
Ngay cả các công ty đang tìm giải pháp thay thế cho các nhà máy ở Trung Quốc hoặc đang chịu áp lực mang dây chuyền về thị trường quê nhà thì vẫn còn một lí do khác khiến họ “cố thủ” ở đây. Đó là thị trường nội địa rộng lớn và ngày càng phát triển của Trung Quốc.
Ngoài ra, Trung Quốc còn tạo điều kiện thuận lợi cho các hãng chế tạo Mỹ như Tesla và mời gọi Honeywell đầu tư vào thành phố Vũ Hán. Thủ tướng Lý Khắc Cường và các quan chức Trung Quốc khác liên tục khuyến khích hợp tác với Mỹ và cam kết sẽ thực hiện thỏa thuận thương mại giai đoạn 1 kí kết vào giữa tháng 1 năm nay.
“Sự hình thành và phát triển của nền công nghiệp và chuỗi cung ứng toàn cầu là do các yếu tố thị trường lẫn lựa chọn của doanh nghiệp quyết định. Cho nên, thật phi thực tế và phi lý khi cố gắng cắt đứt chuỗi cung ứng hoặc thúc đẩy ý tưởng “dịch chuyển” hay “tách rời” Trung Quốc. Điều đó là đi ngược lại luật kinh tế”, phát ngôn viên Cảnh Sảng của Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho hay.
Đại dịch Covid-19 cho thấy các nước khác có thể nhanh chóng thích nghi để đáp ứng nhu cầu về vật tư y tế khi Trung Quốc phong tỏa chống dịch. Việt Nam nhanh chóng đẩy mạnh sản xuất khẩu trang và đã xuất khẩu hơn 415 triệu chiếc trong 4 tháng đầu năm nay, trong khi Mỹ khuyến khích các hãng sản xuất ô tô cải tạo thiết bị để lắp ráp máy thở cùng những vật tư quan trọng khác.
Tuy nhiên, về lâu dài các nước sẽ phải trả lời câu hỏi liệu những mô hình đó có bền vững hay không và ai sẽ trả tiền cho các nhà máy mới bên ngoài Trung Quốc.
Một đạo luật kí ngày 14/5 từ ông Trump cho phép Cơ quan Tài chính Phát triển Quốc tế Mỹ hợp tác cùng Bộ Quốc phòng để cho vay các doanh nghiệp Mỹ muốn xây dựng chuỗi cung ứng hàng hóa thiết yếu như máy thở và sản xuất thuốc.
Tuy nhiên, khi Washington đang phải chi hàng nghìn tỷ USD cứu trợ cho doanh nghiệp và người dân chịu ảnh hưởng bởi đại dịch, việc tìm thêm nguồn vốn để tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ là một nhiệm vụ khó khăn.
Sau cùng, yếu tố quan trọng nhất có thể làm suy yếu vị thế của Trung Quốc trong chuỗi cung ứng toàn cầu nhiều khả năng sẽ bắt nguồn từ sự chững lại và biến đổi từ từ của hoạt động thương mại thế giới, khi doanh nghiệp tìm thấy cơ hội từ những thị trường mới, công nghệ tiên tiến và mô hình làm giàu khác biệt.
Nguồn: vietnamnet