Thời gian qua, cơ quan chức năng của Việt Nam bắt giữ, điều tra xử lý một số đối tượng như: Vũ Quang Thuận, Nguyễn Danh Dũng, Trần Thị Nga, Nguyễn Xuân Long, Bùi Hiếu Võ, Phan Kim Khánh về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Đặc biệt mới đây đối tượng Nguyễn Văn Hóa, ở xã Kỳ Khang, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, bị cơ quan chức năng bắt giữ, điều tra về tội “Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, công dân” theo Điều 258, Bộ luật Hình sự.
Đây là công việc cần thiết của các cơ quan chức năng Việt Nam để bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật. Sẽ chẳng có gì đáng bàn nếu như không có chuyện cứ sau mỗi lần các cơ quan chức năng bắt giữ các đối tượng là một vài tổ chức phi chính phủ thiếu thiện chí với Việt Nam ở nước ngoài thông qua một số trang mạng lại rêu rao những giọng điệu vu cáo “Việt Nam vi phạm quyền tự do ngôn luận”. Thậm chí họ còn đưa ra yêu cầu Việt Nam phải tuân thủ các nghĩa vụ và cam kết quốc tế… trả tự do cho các đối tượng bị bắt giữ.
Ảnh minh họa. |
Cần khẳng định rằng, những phát biểu trên là sự xuyên tạc, bịa đặt trắng trợn, không phản ánh đúng thực tế về hệ thống luật pháp của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bộ luật Hình sự cũng như tất cả các đạo luật hiện hành khác của Việt Nam đều được Quốc hội thông qua và được ban hành dựa trên các nguyên tắc, trình tự xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có việc công khai lấy ý kiến của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Như vậy, rõ ràng hệ thống luật pháp nói chung, Bộ luật Hình sự của Việt Nam nói riêng đã thể hiện rõ tinh thần dân chủ, phát huy trí tuệ của toàn dân, phản ánh ý chí, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân Việt Nam, bảo đảm tính dân chủ và sự đồng thuận của xã hội.
Mặt khác, trong quá trình xây dựng pháp luật, Việt Nam luôn coi trọng việc nghiên cứu các công ước quốc tế mà mình đã tham gia để vận dụng phù hợp vào thực tiễn. Do đó, pháp luật Việt Nam luôn bảo đảm sự tôn trọng và phù hợp với các công ước quốc tế. Điều 2 của Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền được thông qua ngày 10-12-1948 nêu rõ: “Mọi người đều được hưởng tất cả những quyền và tự do được công bố trong Bản tuyên ngôn này”, trong đó có quyền tự do ngôn luận. Cùng với đó, Khoản 2 Điều 29 của Tuyên ngôn này cũng quy định: “Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra ngõ hầu những quyền tự do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn”. Điều đó được hiểu, thực hiện những quyền trên phải căn cứ theo cơ chế chính trị, nền tảng luật pháp hay quy chế quốc tế của quốc gia hay lãnh thổ đó. Mọi công dân khi thực hiện những quyền đó đều phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật, không làm ảnh hưởng đến quyền tự do của người khác, không làm tổn hại đến lợi ích của tập thể, của quốc gia, dân tộc.
Tương tự Điều 19 của Công ước quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 16-12-1966 và có hiệu lực từ ngày 23-3-1976 cũng quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tùy theo sự lựa chọn của họ”. Việc thực hiện những quyền trên phải: “Kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định. Tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để: a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác, b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội”.
Thực tiễn trên thế giới không quốc gia nào có quyền tự do ngôn luận tuyệt đối, quyền này thường bị hạn chế bởi các quy định rất chặt chẽ của pháp luật. Trên tinh thần cơ bản của công ước quốc tế, tại Việt Nam, mọi công dân đều có quyền bày tỏ chính kiến của mình, song quyền này phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, không xâm phạm đến lợi ích của người khác và lợi ích quốc gia, dân tộc. Cần nhắc lại rằng, bảo đảm, tôn trọng quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận của công dân ở Việt Nam thuộc về bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do, trong đó có quyền tự do ngôn luận của công dân. Nhưng Việt Nam cũng kiên quyết xử lý mọi hành vi vi phạm pháp luật, lợi dụng các quyền đó để xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, làm tổn hại đến lợi ích của quốc gia, dân tộc. Điều 88 Bộ luật Hình sự của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tội phạm gồm các hành vi: “Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân; Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hóa phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam…”. Điều 258 Bộ luật Hình sự cũng quy định rõ tội phạm gồm các hành vi: “Lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân…”.
Hành vi phạm tội của các đối tượng nêu trên là rất rõ ràng. Lợi dụng một số sự cố, các phần tử bất mãn, đối tượng cực đoan, phản động trong nước đã móc nối với các tổ chức, cá nhân phản động ở ngoài nước để chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bằng chiêu trò lập ra các blog, các trang mạng xã hội, chúng đã tán phát nhiều thông tin, hình ảnh giả tạo, sai lệch, bịa đặt, đổi trắng thay đen, thật giả lẫn lộn để kích động, gây rối, lôi kéo người dân nhẹ dạ tham gia vào những hoạt động trái pháp luật; hướng lái dư luận theo quan điểm sai trái, thù địch… Hành vi của các đối tượng là biểu hiện của chủ nghĩa tự do cực đoan, của tình trạng tự do vô chính phủ gây mất an ninh trật tự, ảnh hưởng đến lợi ích của quốc gia, dân tộc. Hành vi ấy không chỉ vi phạm pháp luật Việt Nam mà còn trái với Điều 29 của Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền và Điều 19 của Công ước quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị.
Việc các cơ quan bảo vệ pháp luật Việt Nam bắt giữ, điều tra để xử lý các đối tượng trên về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Điều 88 và tội: “Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, công dân” theo Điều 258 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng luật pháp Việt Nam và phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Nếu ai đó nói rằng: “Việt Nam vi phạm quyền tự do ngôn luận” là hành động vu cáo, xuyên tạc, bịa đặt. Tổ chức, cá nhân nào đội lốt “bảo vệ nhân quyền” đòi trả tự do cho những đối tượng vi phạm pháp luật vừa bị bắt giữ là hành vi can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam và không thể chấp nhận được.
Theo Báo Quân đội nhân dân online