Tổng thầu trung Quốc đã đề xuất mốc thời gian hoàn thành công tác nghiệm thu, chuyển giao Dự án dự kiến vào ngày 31/12/2019. Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ Giao thông vận tải, mốc thời gian trên là khó khả thi.
“Đội vốn” hơn 9 nghìn tỷ, chậm tiến độ 6 năm
Chính phủ vừa có báo cáo gửi Quốc hội liên quan đến dự án đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông.
Theo đó, tổng mức đầu tư ban đầu của Dự án được Bộ Giao thông vận tải phê duyệt năm 2008 là 8,7 nghìn tỷ đồng (tương đương 552,86 triệu USD), trong đó vay Trung Quốc là hơn 400 triệu USD. Ban đầu, dự kiến năm 2013 vận hành dự án.
8 năm sau, vào năm 2016, dự án được điều chỉnh lên hơn 18 nghìn tỷ đồng, tăng hơn 9,2 nghìn tỷ đồng so với tổng mức đầu tư được duyệt ban đầu.
Trong đó, phần vốn vay của Trung Quốc cũng lên con số 13,8 nghìn tỷ đồng (tương đương trên 669 triệu USD), tăng 7,2 nghìn tỷ đồng (tương đương 250,62 triệu USD).
Dự án Cát Linh – Hà Đông chậm tiến độ nhiều năm. |
Báo cáo Quốc hội, Chính phủ cho biết tổng mức đầu tư điều chỉnh tăng do thay đổi phương án nhà ga từ 2 tầng thành 3 tầng; bổ sung hạng mục xử lý nền đất yếu khu Depot; Bổ sung hạng mục đường tránh Quốc lộ 6; Điều chỉnh vật liệu vỏ tàu từ thép chịu khí hậu sang thép inox; Kinh phí giải phóng mặt bằng (bao gồm cả công trình di dời hạ tầng kỹ thuật) thay đổi; Biến động về giá nguyên, nhiên, vật liệu, tỷ giá hối đoái; các chế độ, chính sách trong thời gian thực hiện dự án cũng như các khối lượng, đơn giá chưa tính chính xác được trong bước thiết kế cơ sở,…
Hiện nay, công tác nhập khẩu vật tư, thiết bị được tổng thầu tiếp tục thực hiện (tổng khối lượng vật tư, thiết bị đã về đến công trường đạt khoảng 99%). Công tác thi công lắp đặt thiết bị đang được tổng thầu triển khai đạt khoảng 97%.
Các công việc còn lại bao gồm thi công biển báo chỉ dẫn, thiết bị công nghệ khu Depot; khắc phục tồn tại và sửa chữa khiếm khuyết các chuyên ngành thông tin, AFC, cấp điện.
Tính đến nay, dự án đã giải ngân được phần lớn lượng vốn. Cụ thể, vốn ODA Trung Quốc giải ngân được 518 triệu USD trên tổng số vốn vay là 669,62 triệu USD (khoảng 77,49%); còn vốn đối ứng phía Việt Nam giải ngân được 3.196 tỷ đồng trên tổng số 4.134 tỷ đồng (khoảng 77,30%).
Chưa rõ ngày vận hành
Theo báo cáo của Bộ Giao thông vận tải, tổng thầu đã đề xuất mốc thời gian hoàn thành công tác nghiệm thu, chuyển giao dự án dự kiến vào ngày 31/12/2019. Tuy nhiên, do tiến độ tổng thầu đưa ra còn có nhiều nội dung chưa chi tiết và có các điều kiện ràng buộc, nên theo đánh giá của Bộ Giao thông vận tải, mốc thời gian nêu trên là khó khả thi.
Theo chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải đang yêu cầu Tổng thầu khẩn trương lập kế hoạch chi tiết đối với từng hạng mục còn lại để xác định thời gian hoàn thành Dự án.
Tồn tại, vướng mắc chủ yếu của Dự án là việc Tổng thầu chưa tập trung giải quyết dứt điểm các nội dung liên quan đến đảm bảo an toàn trước khi đưa Dự án vào vận hành khai thác.
Ngoài ra, tư vấn độc lập chưa thể hoàn tất báo cáo cuối cùng về đánh giá an toàn hệ thống.
Chưa kể, quá trình vận hành thử toàn hệ thống sẽ đánh giá khả năng thành thục của nhân sự trực tiếp vận hành và khả năng ứng phó các tình huống khẩn cấp. Do đó, Chính phủ cho rằng: Nếu không hoàn thành đánh giá Hệ thống đảm bảo an toàn sẽ khó có thể nghiệm thu đưa vào khai thác.
Liên quan đến trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, vừa qua Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Giao thông vận tải làm rõ trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị có liên quan; báo cáo của Bộ này cho thấy Dự án chậm tiến độ, tăng tổng mức đầu tư ngoài trách nhiệm chính thuộc phía Tổng thầu thì chủ đầu tư (Bộ Giao thông vận tải), Ban Quản lý dự án Đường sắt chịu trách nhiệm trong công tác quản lý điều hành dự án.
Còn Tư vấn thiết kế bước lập dự án chịu trách nhiệm về chất lượng lập dự án đầu tư; Chủ đầu tư của phần giải phóng mặt bằng (UBND TP. Hà Nội) chịu trách nhiệm về việc chậm trễ trong công tác giải phóng mặt bằng; Tư vấn giám sát chịu trách nhiệm trong công tác chỉ đạo thi công, quản lý tiến độ, chất lượng, giá thành xây dựng.
Mặt khác, Ban Quản lý dự án Đường sắt cũng đang tiến hành rà soát các điều khoản trong hợp đồng EPC, xác định rõ trách nhiệm của Tổng thầu và các bên liên quan để xử lý, giải quyết các khiếu kiện trong trường hợp cần thiết phù hợp với điều kiện của hợp đồng EPC.
Nguồn: vietnamnet