Một ngày trung tuần tháng 2.1979, thị xã Cao Bằng chìm trong không khí giá lạnh và mịt mù sương núi. Nông Thị Nương (ở khu Đức Chính, xã Hưng Đạo) vẫn còn đang ngủ, trùm trong chiếc chăn bông kín mít. Cô bị dựng dậy bởi một tiếng nổ như bom phía sau nhà. Người cô như bị một sức ép quá mạnh, bị thổi bắn vào tường, đau điếng. Những người thân trong gia đình lúc ấy cũng giật mình tỉnh giấc bởi tiếng động quá lớn.
Khi đã cách khá xa nhà, Nương nhìn thấy xe tăng và lính Trung Quốc mang lưỡi lê rầm rập trên đường, gọi nhau ý ới và tiến vào từng đoàn. Chúng la hét, đốt phá ầm ĩ. Khắp nơi, người dân gồng gánh, nháo nhác theo nhau chạy giặc.
Đến bây giờ, sau 40 năm, bà Nông Thị Nương đã gần bước sang tuổi “thất thập”, có nhiều câu chuyện mà trí óc bà nay đã quên quên nhớ nhớ nhưng Tổng Chúp vẫn là ký ức hằn sâu trong bà như một vết thương khó lành. Bà Nương vẫn còn nhớ như in những âm thanh hỗn loạn hôm ấy.
Lúc đó, bà cùng người thân vượt qua bên kia sông, chạy hướng về sâu trong nội địa. Nhiều người dân Tổng Chúp cũng như các xã xung quanh cũng đều chạy về phía ấy. Khắp nơi ngột ngạt mùi thuốc súng, tanh nồng bởi máu me, tiếng la hét, gào khóc, gọi nhau lạc cả giọng, tiếng trẻ con khóc không thành tiếng vì khát nước, khát sữa lẫn âm thanh rầm rập của xe tăng, tiếng loảng xoảng của súng ống, lưỡi lê… Thứ âm thanh đó bao nhiêu năm vẫn mãi ám ảnh trong giấc ngủ của bà.
Khi đã bỏ chạy được một quãng xa và không thấy bóng quân Trung Quốc, mọi người tưởng đã yên bình nên tụ tập nhau lại, bàn tính sẽ kéo nhau về Bắc Kạn lánh nạn, chờ tình hình yên ổn mới trở về nhà thu dọn đồ đạc.
Nhưng đoàn người mới chỉ đi được quãng ngắn thì lại rơi vào bẫy phục kích. Chúng lạnh lùng lia 1 loạt súng, xả đạn thẳng vào giữa đám đông, nhiều người chết vì loạt đạn tàn khốc, thi thể đổ gục xuống như cây chuối, máu loang đỏ một vùng.
Không kịp định thần, những người sống sót chạy tán loạn, mỗi người một hướng. Người lao xuống suối, người chạy thẳng về phía rừng già. Bà Nương chạy theo một người hàng xóm, đến lúc hoàn hồn trở lại mới nhận ra là người thân trong gia đình không còn ai bên cạnh.
Bà Nương đã may mắn sống sót nhờ chui vào hang đá ẩn náu.
Khi nghe tin bảo quân Trung Quốc đã rút, mọi người lục tục kéo về. Lúc tìm về thì ngôi nhà cũ bà Nương thấy chỉ còn là đống gạch vỡ nát, làng bản là một đống hoang tàn. Trong đợt tấn công đó, lính Trung Quốc đã phá sạch sẽ từng ngôi nhà, từng công trình, sục sạo làng bản…
Bà Nương thảng thốt khi biết mấy chục công nhân xấu số ở trại lợn Đức Chính, toàn phụ nữ cùng với trẻ em, đã không chạy thoát, tất cả đều bị bắt và hành quyết. Tổng cộng chúng đã giết chết 43 người, trong đó có cả những người đang mang thai. Gia đình bà may mắn thoát nạn trong cuộc thảm sát đẫm máu.
Những ngày tháng 2 năm đó, bà Nương mới 15 tuổi.
“Tại sao lại có chiến tranh, chúng tôi chỉ là người dân thôi mà, sao họ lại giết chóc như thế?”, trong cơn giận tràn lên lồng ngực, sau 40 năm, bà Nương vẫn lặp lại mãi một câu hỏi.
Không chỉ bà Nương, những người còn sống ở làng Tổng Chúp đều mang một ký ức đau đớn như thế cho dù 40 năm đã trôi qua. Nhiều người trong số họ vẫn chưa nguôi được lòng căm hận. Những ký ức vẫn in hằn trong tâm thức của họ như mới ngày hôm qua.
“Có cả trẻ con, đại đa số là trẻ con. Khi bắt lần đầu bọn chúng thả ra, cho vượt sông, sang sông để trốn thoát. Nhưng khi không vượt được sông thì lại bị bắt lại. Là hội khác chứ không phải hội đầu nên chúng tàn sát cho xuống giếng”.
Đó là lời chị Nông Thị Kim Chung (người nhà nạn hân vụ thảm sát Tổng Chúp – Cao Bằng) kể lại về buổi sáng tang thương tại làng Tổng Chúp trong một lần trả lời phỏng vấn với trang VTC News vào năm 2016. Khi đó, nhóm người phụ nữ, trẻ em, vợ con của những công nhân trong trại lợn đang trên đường đi sơ tán thì bị lính Trung Quốc bắt giữ. Chị Chung kể rằng, khi vụ thảm sát xảy ra, mẹ chị vẫn đang địu đứa em gái mới chỉ 8 tháng tuổi.
“Khi người ta gọi đến nhận xác, lúc ấy bà nội cho chú út tôi lên nhận xác. Vì mẹ tôi có mái tóc dài nên chú út mới nhận dạng được. Đứa em gái mẹ vẫn địu ở trên lưng cũng bị sát hại”, chị Chung đau đớn, nấc lên từng tiếng, giọng nghẹn lại khi nói về nỗi đau khi mất mẹ và em gái. Lúc đó chị Chung mới hơn 2 tuổi.
Từ đó đến nay, người đàn bà ngoại tứ tuần vẫn đau đáu nỗi đau mất mẹ. “Ai cũng có một người mẹ nhưng hàng ngày thấy người ta gặp mẹ thì mình cũng xúc động lắm. Từ năm 1979 không một lần được gọi một tiếng Mẹ ơi mà lòng thấy tội nghiệp lắm”, chị đưa tay gạt dòng nước mắt đang xối xả tuôn.
Cùng đám đông chạy loạn hôm đó, bà Tô Thị Yểng – mẹ của ông Đinh Ngọc Tinh (khu Đức Chính, xã Hưng Đạo, TP.Cao Bằng) đã bị quân Trung Quốc giết hại trong vụ thảm sát ngày 9.3. Năm đó bà Yểng 41 tuổi.
“Khi bố và anh em tôi chạy vào rừng, từ trên đỉnh đồi chúng tôi còn nhìn thấy mẹ đang chạy giặc, nhưng chúng tôi không thể nào gọi được. Không ngờ đó là lần cuối chúng tôi gặp mẹ….”, ông Tinh kể lại với Dân Việt, đôi mắt ầng ậng nước.
Hai anh em ông và bố chạy thoát được vào rừng. Khi nghe tin quân Trung Quốc đã rút khỏi, ba bố con trở về nhà, chỉ thiếu mỗi mẹ.
Trong trí nhớ của ông Tinh, lúc đó nghe mọi người kể lại, mẹ ông cùng một số công nhân ở trại lợn chạy đến cây số 5, đang trên đường đi Bắc Kạn thì gặp phải một toán lính Trung Quốc. Chúng không bắn mà trói họ lại rồi giải về Tổng Chúp. Mãi sau đó, ông mới biết được mẹ mình đã bị vùi xuống giếng cổ.
“Hàng loạt xác chết được đưa lên đều không phải, cả nhà chúng tôi le lói một tia hy vọng rằng bà còn sống. Nhưng đến người cuối cùng được vớt lên, cả nhà bàng hoàng nhận ra đó là mẹ”, ông Tinh nói với Dân Việt. Và ông tin rằng mẹ ông chính là người đầu tiên bị quân lính sát hại rồi quẳng xuống giếng trong vụ thảm sát ở Tổng Chúp hôm ấy.
“Khi bốc dỡ dưới giếng, thấy xác chồng chất nhau. Lúc vớt lên chỉ thấy đàn bà và trẻ em. Đa số các em mới chỉ khoảng 1-2-3 tuổi” – ông Nguyễn Văn Sừ (Hòa An, Cao Bằng) là một trong những người khi quay về đã cùng một số người dân xuống giếng trực tiếp đỡ từng xác phụ nữ, trẻ em để đem đi chôn cất kể lại. Ông Sừ tin rằng mình đã nắm giữ một mảnh ký ức quan trọng của vụ thảm sát ở Tổng Chúp.
“Thảm thương nhất là nhiều người không biết mẹ là ai, hoặc con chết mà mẹ cũng không biết là chết ở đâu. Vớt ở dưới giếng toàn thấy xác chồng lên nhau, mẹ con đang cõng nhau”, ông Sừ trùng giọng, rồi nói rằng, ông thật sự bị sốc. Bao nhiêu năm qua, ông chưa bao giờ có thể quên những điều ông nhìn thấy.
***
Suốt nhiều năm nay, cứ đến sáng 17.2, ông Nông Văn Bàn ở xã Đức Long (Hòa An, Cao Bằng) lại mang chai rượu, ít hoa quả sang vách núi cách nhà mình không xa lắm, đặt xuống và ngồi trầm ngâm. Chỗ đấy giờ chỉ còn là đám lau lách rậm rạp, um tùm. Nhưng 40 năm trước, nơi đây là tổ ấm của cả gia đình ông. Buổi sáng định mệnh ấy đã cướp đi bố mẹ và các em, chỉ còn mỗi mình ông.
Không chỉ ông Bàn, nhiều người dân ở các bản làng dọc biên giới phía Bắc cũng chịu nhiều mất mát. Đạn pháo tầm xa của giặc đã phá hủy nhà cửa, trường học, bệnh viện, cầu cống, nhiều người dân bị giết hại. Thị xã Cao Bằng lúc đó chỉ còn là đống đổ nát, hoang tàn. Cho đến hôm nay, vẫn chưa có một số liệu chính thức về số người đã chết trong cuộc chiến tranh biên giới khốc liệt đó.
“Năm đó, tôi đi bộ đội đóng ở Quảng Ninh, chỉ nghe là sáng 17.2.1979, quân Trung Quốc ồ ạt đánh qua cửa khẩu Đức Long, biết rằng nhà mình nằm trong vòng vây của giặc”, ông nói. Lúc tìm về, ngôi nhà cũ chỉ còn là đống gạch vỡ nát. Cả gia đình ông không ai thoát chết trong loạt đạn pháo của giặc.
Những thông tin ông nghe được từ cuộc chiến ở Cao Bằng hôm ấy đều từ báo, đài, người dân. Báo Quân đội nhân dân lúc ấy đăng “4 giờ 17 phút ngày 17.2.1979, giữa lúc nhân dân Hoàng Liên Sơn đang ngủ ngon thì bất thình lình hàng loạt đạn đại bác từ phía Bắc giội tới làm khắp biên giới bốc lửa ngùn ngụt. Hàng loạt quả đại bác thi nhau trút xuống thị xã Lào Cai, Cốc Lếu, nhằm thẳng các cơ quan, nhà máy…”. Bất ngờ trước sự tấn công của quân Trung Quốc, người dân thị xã Cao Bằng ngược đường quốc lộ, băng rừng di tản về hướng Bắc Kạn, Thái Nguyên…
Với ông Lý Văn Dư (bản Bung, xã Danh Sĩ, Thạch An, Cao Bằng), trước khi xảy ra sự kiện 17.2.1979, cũng như những người dân sống nơi vùng phên dậu chỉ nghĩ rằng, quan hệ giữa 2 nước dù có căng thẳng, nhưng “cùng là anh em cả ai lại nỡ bắn nhau. Thế mà…”.
5h sáng 17.2.1979, bầu trời biên giới phía Bắc bỗng sáng rực. Ông Dư cùng mọi người bị giật dậy khi khắp nơi có tiếng hô hoán: “Tàu đánh rồi, Tàu đánh rồi”. 9h sáng, xe tăng Trung Quốc rầm rập, tràn ngập thị trấn Đông Khê. Những người dân miền biên viễn chả ai kịp gói ghém đồ đạc, mạnh ai nấy chạy, tìm đường sống…
Thời điểm đó, Trung Quốc đưa quân tràn qua biên giới, đồng loạt tấn công 6 tỉnh biên giới lãnh thổ Việt Nam từ Pa Nậm Cúm (Lai Châu) đến Pò Hèn (Quảng Ninh). Cuộc tấn công của Trung Quốc gây bất ngờ với Việt Nam và cả thế giới dù trước đó Trung Quốc đã từng tuyên bố về ý định trừng phạt.
Thời điểm tấn công, lính Trung Quốc ước tính 600.000 với 9 quân đoàn chủ lực và 32 sư đoàn bộ binh độc lập, 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư đoàn, trung đoàn pháo binh, phòng không cùng hàng trăm pháo hạng nặng, hàng nghìn súng cối và dàn hỏa tiễn. Trong khi đó, theo Niên giám châu Á năm 1980, tổng lực lượng phòng thủ của Việt Nam tại các tỉnh biên giới phía Bắc chỉ có khoảng 50.000 quân. Bộ Quốc phòng Việt Nam đã gấp rút điều động các sư đoàn bộ binh quân khu từ tuyến sau lên, quân chủ lực từ chiến trường Tây Nam trở về tham chiến.
Thị xã Cao Bằng lúc đó bị quân Trung Quốc bắn phá tan hoang. Chúng hình thành hai cánh quân lớn từ phía tây bắc theo đường Thông Nông đánh xuống và từ phía đông bắc qua Thạch An, Quảng Hòa đánh lên nhằm hợp điểm ở thị xã Cao Bằng.
Tuy vậy cả hai cánh quân đều bị bộ đội và dân quân Cao Bằng đánh chặn. 3 ngày đầu, 4 tiểu đoàn quân Trung Quốc bị thiệt hại, hàng chục xe tăng, xe bọc thép bị phá huỷ và Trung Quốc buộc phải đưa lực lượng dự bị vào vòng chiến. Trên trận địa phòng ngự tại đồi Khâu Chia, các lực lượng của Việt Nam đã chặn đứng một sư đoàn Trung Quốc trong 12 ngày, diệt hơn 4.000 lính.
Sáng 5.3, loa phát thanh của Đài tiếng nói Việt Nam phát bản tin đặc biệt kêu gọi: “Hỡi đồng bào và chiến sĩ yêu quý! Quân thù đang giày xéo non sông, đất nước ta. Độc lập, tự do, chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta đang bị xâm phạm. Hòa bình và ổn định ở Đông Nam châu Á đang bị đe dọa. Dân tộc Việt Nam ta phải ra sức chiến đấu để tự vệ… Toàn thể đồng bào các dân tộc anh em trong cả nước, các tôn giáo, các đảng phái, già, trẻ, gái, trai hãy phát huy truyền thống Diên Hồng, triệu người như một, nhất tề đứng lên bảo vệ Tổ quốc”.
Ngay sau lời kêu gọi, từ khắp các công, nông trường, xí nghiệp, thôn xóm trên cả nước có hàng nghìn lá đơn tình nguyện lên đường nhập ngũ.
***
Cao Bằng những ngày tháng 2.2019 vẫn chìm trong những đợt sương mù bất chợt. Ở nhiều nơi miền biên giới này, người ta vẫn nghe thấy tiếng tụng kinh, mùi hương trầm thoang thoảng, vẫn nhìn thấy ở đâu đó, những ánh mắt ưu tư, khắc khoải. Nỗi đau dường như vẫn còn đó, chưa khi nào hết nguôi ngoai nhưng mọi người đều muốn cởi bỏ dần những hận thù để hướng đến tương lai.
(Bài có sử dụng ảnh tư liệu, video của đồng nghiệp)
Theo Dân việt